CÁC NGHI THỨC Nghi Thức Tụng Niệm

NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN

Nghi Thức Khai Kinh

Tán Thán Phật

Đấng pháp vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y trọn một niệm.

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán.

Ức kiếp không cùng tận.

Quán Tưởng

Phật, chúng sanh: tánh thường rỗng lặng.

Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

Lưới đế châu ví tựa đạo tràng,

Mười phương Phật bảo,

hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương Chư phật, Tôn pháp, Hiền thánh tăng, thường trú Tam bảo (1 lạy).

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà giáo chủ, bổn sư Thích ca mâu ni phật, Đương lai Di lạc tôn phật, Đại trí Văn thù sư lợi bồ tát, Đại hạnh Phổ hiền bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ tát (1 lạy).

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới, Đại từ Đại bi A di đà phật, Đại bi Quan thế âm bồ tát, Đại lực Đại thế chí bồ tát, Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát (1 lạy).

Tán Lư Hương

Lư hương sạ nhiệt,

Pháp giới mông huân,

Chư Phật hải hội tất diêu văn,

Tùy xứ kiết tường vân,

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần).

Tán Dương Chi

Dương chi tịnh thủy,

Biến sái tam thiên.

Tánh không bát đức lợi nhơn thiên.

Pháp giới quảng tăng diên,

Diêt tội tiêu khiên.

Hỏa diệm hóa hồng liên.

Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát (3 lần)

Tán Tâm Nhiên

Tâm nhiên ngũ phận,

Phổ chiếu thập phương.

Hương yên đồng tử ngộ chơn thường,

Tỷ quán thiệt nan lương.

Thoại ái tường quang.

Kham hiến Pháp Trung Vương.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát.(3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ Đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha Bồ Đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.(3 lần)

Tán Bồ Tát

Bồ Tát liễu đầu cam lộ thủy,

Năng linh nhứt đích biến thập phương.

Tinh chiên cấu uế tận quyên trừ,

Phổ sái pháp diên thường thanh tịnh.

Nam mô Cam Lồ Vương Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo (3 lần)

Kệ Khai Kinh

Phật pháp tuyệt diệu, Cực kỳ cao xa.

Trăm ngàn vạn kiếp, Khó mà gặp được.

Nay con thấy nghe, Lại được thọ trì.

Nguyện cầu thấu hiểu, Ý thật của Phật.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

Kinh VU LAN

Kinh này tôi nghe, đức Thế Tôn dạy, khi ngài ở trong tịnh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả Đại Mục Kiền Liên, mới được trí thông, muốn độ cha mẹ, báo ân sanh dưỡng, bèn dùng mắt trí tìm khắp tất cả thấy mẹ của mình ở trong ngạ quỷ, không được ăn uống, da liền với xương. Tôn giả Mục Liên, thấy mẹ như vậy vô cùng bi thương, liền lấy bình bát đem cơm cho mẹ. Mẹ ngài được cơm tức thì tham lẫn, tay trái che bát, tay phải bốc ăn, nhưng chưa vào miệng cơm đả hóa ra than lửa đỏ hồng, nên không ăn được. Tôn giả Mục Liên thấy mẹ như thế gào khóc bi thảm về bạch đức Phật.

Phật dạy:

“Mẹ ông tội lỗi sâu dày, không phải sức ông mà giải thoát được. Ông tuy hiếu thuận cảm động trời đất, nhưng mà trời đất quỷ thần ngoại đạo, đạo sĩ tà ma, tất cả người ấy không ai cứu được. Phải nhờ uy lực của mười phương chúng tăng mẹ ông mới được giải thoát tội nghiệp. Ta chỉ cho ông cách cứu độ mẹ, để những bà mẹ hiện đang đau khổ đều được giải thoát.

“Đại Mục Kiền Liên, ngày rằm tháng bảy là ngày Tự Tứ của mười phương tăng. Vì các cha mẹ hoặc hiện còn sống, hoặc đã quá vãng mà đang sa đọa trong vòng khổ não, ông nên chí thành cúng dường mười phương đại đức chúng tăng. Ngày Tự Tứ ấy tất cả thánh tăng hoặc tu thiền định ở tại núi cao, hoặc được bốn thứ đạo quả giải thoát, hoặc thọ trì kinh dưới gốc đại thọ, hoặc là Thanh Văn giác ngộ, Duyên Giác đủ các trí thông, giáo hóa tất cả, hoặc đại Bồ Tát đã lên Thập Địa mà quyền hiện ra làm đại tỳ kheo, tất cả đại đức thánh tăng như thế thảy đều từ bi ứng thọ cúng dường giới hạnh thanh tịnh, trí đức vô biên. Ai được cúng dường thánh tăng như thế thì khắp tất cả lục thân quyến thuộc đều vượt ác đạo ứng niệm giải thoát, cha mẹ hiện còn phước lạc sống lâu, cha mẹ quá khứ được thiên hoa quang.”

Dạy Mục Liên xong, đức Phật lại dạy mười phương thánh tăng ứng thọ cúng dường phải chú nguyện trước cho người thí chủ. Trước khi chú nguyện đem để trước Phật, hoặc trong chùa tháp, đại đức chúng tăng, thiền định chú nguyện, rồi tự ứng thọ.

Bấy giờ tôn giả Đại Mục Kiền Liên cùng với các vị đại thừa bồ tát đều rất hoan hỷ. Tiếng khóc bi thảm của ngài Mục Liên tức thời trừ diệt. Mẹ ngài Mục Liên cũng giải thoát ngay kiếp khổ ngạ quỷ ngay trong ngày ấy.

Tôn giả Mục Liên lại bạch đức Phật:

“Nhờ đức Tam Bảo, uy lực thánh tăng nên mẫu thân con đã được thoát khổ, nhưng đời sau này tất cả phật tử có thể cứu thoát cha mẹ hiện tại và cả bảy đời bằng cách cúng dường Vu Lan Bồn không?”

Đức Phật liền dạy:

“Lành thay Mục Liên, chính ta muốn nói ông lại biết hỏi. Đại Mục Kiền Liên, các vị xuất gia, vua quan dân chúng, ai người hiếu thuận là đều phải vì cha mẹ hiện tại cho đến bảy đời, ngày rằm tháng bảy, ngày tăng tự tứ, ngày phật hoan hỷ, chí thành cúng dường mười phương chúng tăng, để cho cha mẹ hiện còn đời này phước thọ tăng thêm, không bệnh không khổ, cha mẹ bảy đời thoát khổ ngạ quỷ sanh trong nhơn thiên, phước lạc vô cùng. Là người phật tử thì phải hiếu thuận; là người hiếu thuận thì trong từng niệm phải thường nghĩ đến cha mẹ hiện tại và cả bảy đời.

“Hằng năm gặp đến ngày rằm tháng bảy thì phải tự hiếu, cúng dường Vu Lan để nhờ trí đức của phật, của tăng báo đáp từ ân của cha, của mẹ.”

Đức Phật dạy xong, tôn giả Mục Liên và các đệ tử tại gia, xuất gia đều rất hoan hỷ chí nguyện phụng hành.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. (3 lần)

Kinh BÁO ÂN CHA MẸ

Kinh này tôi nghe Phật dạy trong khi Ngài cùng với rất nhiều các vị Đại Tỳ kheo, Đại Bồ Tát ở trong tịnh xá Kỳ Hoàn, thuộc nước Xá Vệ.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn cùng với các đại chúng đi về phía Nam tịnh xá, thấy một đống xương khô, Ngài liền đảnh lễ sát đất, Tôn giả A-nan thấy vậy bèn thưa: Bạch đức Thế Tôn! Ngài là Đại sư của chúng sinh là từ phụ của muôn loài, ai cũng quý kính sao Ngài lại lễ bái đống xương khô ấy một cách cung kính như thế?

Phật dạy: A-nan! Ông tuy là đệ tử thượng túc của ta, nhưng trí thức của ông còn khuyết điểm. Đống xương khô này hoặc là tổ tôn kiếp trước, hoặc là cha mẹ nhiều đời của ta, nên ta chí thành kính lễ.

Ông thử đem đống xương này chia ra hai phần: Nếu là đàn ông thì đầu xương trắng mà nặng, như là đàn bà thì xương đã đen lại nhẹ.

Tôn giả A-nan bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Đàn ông đàn bà khi còn sinh tồn thì nhờ hình dáng mà biện biệt. Nay đã chết rồi thì chỉ một đống xương khô như nhau, còn làm sao phân biệt được?

Phật dạy: A-nan! Đàn ông khi sống, tinh tu phạm hạnh, đa văn thiền quán, nên xương trắng mà nặng. Đàn bà sinh sản, huyết sữa hao tổn, mệt nhọc lao khổ, nên xương đen lại nhẹ.

Tôn giả A-nan nghe Phật dạy như thế, lòng đau như cắt, than khóc rơi lụy, bạch hỏi Đức Phật: Bạch đức Thế Tôn! Ân đức cha mẹ thế nào? Làm sao báo đáp được?

Phật dạy: A-nan! Hãy nghe cho kỹ. Ta sẽ giải thích rõ ràng.

Trong mười tháng thai mang, mẹ hiền thật cùng cực khổ sở. Thai mang một tháng như hạt sương rơi trên cỏ, tan tụ rất mong manh, hai tháng như váng sữa, ba tháng như huyết đọng, bốn tháng hơi thành hình người, năm tháng mới có đầu, hai tay và hai chân, sáu tháng sáu giác quan là mắt, tai, mũi, miệng, lưỡi và ý mới khai tượng, bảy tháng gân cốt lông da mới đủ, tám tháng đủ lục phủ ngũ tạng, chín tháng mới thành đứa bé, hấp thụ nguyên khí của mẹ mà sống. Qua tháng thứ mười bắt đầu chuyển sinh. Nếu là hiếu thuận thì đứa hài nhi ấy xuôi tay mà ra, không thương tổn mẹ; nếu đứa ngỗ nghịch, thì cào cấu tâm can, phá đạp thai bào làm cho thân mẫu đau đớn vạn trạng. Nên sanh đẻ được thân này là may mắn phước đức lắm vậy!

A-nan! Ân đức cha mẹ có mười điều sau đây:

Một là ân thai mang giữ gìn: Vì sự nghiệp lực nhân duyên, nên nay thát thai mẹ. Lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi, đi đứng sợ gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.

Hai là ân sinh sản khổ sở: Qua tháng thứ mười, gần ngày sản nạn, đêm đêm như bịnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn, khiếp hãi sầu khổ lệ sầu tuôn rơi, bôn ba nghĩ ngợi, chỉ sợ tử thần không dung tánh mạng.

Ba là ân sinh rồi quên lo: Trong khi sinh đẻ, gan ruột từ mẫu tuồng như xé rách đau đớn mê man, máu huyết dầm dề. Nhưng nghe con an toàn thì vui mừng quên tất cả. Song vui đó lại buồn đó, thống khổ triệt can trường.

Bốn là ân nuốt đắng nhổ ngọt: Tình thương cha mẹ thật thâm hậu, thương mến có bao giờ lạt phai. Nhổ ngọt không tiếc nuối, nuốt đắng nào phiền hà. Thương mến càng sâu đậm, bi sầu càng tăng thêm. Miễn sao con no ấm, đói khát mẹ nào từ.

Năm là ân nhường khô nằm ướt: Mẹ nằm chổ ướt át, nâng con chổ ấm khô. Đôi vú no đói khát, hai tay che gió sương. Yêu thương quên ngủ nghỉ, sủng ái hết giá lạnh. Chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an.

Sáu là ân bú mớm nuôi nấng: Mẹ hiền ân hơn đất, cha nghiêm đức quá trời, che chở ân cao dày, cha mẹ nào tính toán. Không hiềm không mắt mũi, không ghét què chân tay. Con sinh từ bụng mẹ, còn đổi dạ thương ai.

Bảy là ân tắm rửa săn sóc: Không nghĩ phận mình chỉ lo con bịnh tật, cho nên hết lòng tắm rửa và săn sóc. Áo quần lo cho con, rách rưới mẹ đành chịu. Thân con được kín đáo là lòng mẹ ấm áp.

Tám là ân xa cách thương nhớ: Chết mà từ biệt đã đành khó nhẫn nại, sống mà biệt ly, lại càng rất nhớ thương. Con đi đường xa cách, lòng mẹ bóng theo hình. Ngày đêm không hả dạ, tối sớm nào tạm quên. Khóc như khóc vượn nhớ con, thương nhớ nát can trường.

Chín là ân vì con làm ác: Lao khổ đủ muôn bề, bữa ăn vẫn khó kiếm, vì muốn no ấm, việc ác mẹ khó xa. Nuôi khôn lớn, lo hôn nhân, lo cơm áo, sợ cơ hàn. Kho nấu các sinh vật, cũng vì ngon miệng con.

Mười là ân thương mến trọn đời: Ân đức cha mẹ cao sâu hơn trời đất. Hy sinh hết tất cả, vẫn thấy chưa vừa lòng. Mẹ già hơn trăm tuổi, còn thương con tám mươi. Ân ái có đoạn chăng, chỉ hơi thở cuối cùng!

Phật dạy: A-nan! Ta xét chúng sinh tuy làm thân người, tâm trí hôn mê, không biết cha mẹ ân đức cao dày, không biết cung kính, vong ân bội nghĩa, không lòng mến thương, bất hiếu bất mục. Từ mẫu thai mang trong muời tháng tròn, đứng ngồi không yên, như gánh gánh nặng, ăn uống không xuống, như bệnh lâu lành. Khi đủ ngày tháng, sắp sửa sinh đẻ thì đủ khổ sở, khiếp sợ tử thần, tính mạng mong manh. Như vật bị hại, huyết chảy tràn đất: mẹ khổ như thế mới sinh ra ta. Sinh rồi nuốt đắng nhổ ngọt, bồng ẳm nuôi nấng, săn sóc tắm rửa, không kể mệt nhọc, nhịn nắng chịu mưa, không từ cay đắng. Chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ lăn. Suốt trong ba năm, nhờ huyết sữa mẹ mới thành đứa bé. Đến khi khôn lớn, lo việc giáo dục, lo việc hôn nhân, kinh doanh sản nghiệp, tận tuỵ lao lung. Khổ nhục suốt đời, không kể công khó. Con cái bệnh tật, cha mẹ bệnh theo, bệnh con nếu hết, mẹ hiền mới lành.

Thế nhưng đến khi trưởng thành, thì lại bất hiếu. Nói với cha mẹ lời tiếng hỗn hào, trợn mắt trừng ngươi. Khi lăng chú bác, đánh đập anh em, huỷ nhục bà con, không có lễ nghĩa. Thầy dạy không tuân, cha mẹ răn bảo, toàn không y cứ. Đối đãi anh em, cố ý gây gổ. Đi ở ra vào, không cần cha mẹ. Ngôn hạnh thô bỉ, tự chuyên manh động. Cha mẹ quở trách, chú bác răn dè, thì sinh sân hận, chống trả phản bội, mặc dầu chính ta, do mẹ sinh ra, do cha nuôi lớn. Ruồng bỏ bạn tốt, trìu mến kẻ xấu, huân tập thành tánh, bèn thành cuồng bạo. Thoát ly gia đình, giang hồ mung lung. Hoặc chinh chiến xâm lược, hoặc bị biếm tù đày, hoặc khốn khổ đói khát, hoạn nạn nguy hiểm vì vậy thân chết, thây phơi gió sương, xương trắng bộc lộ. Để cho cha mẹ nhớ thương sầu khổ, khóc đến lòa mắt, bi ai thành bệnh. Có khi buồn khổ, đến nỗi phải chết.

Hoặc thấy con cái mê tín dị đoan, không lo học tập, xao lãng nghề nghiệp, cho nên cha mẹ lại càng buồn khổ. Thế nhưng con cái vẫn cứ cờ bạc hoang đàng mông lung, tội lây cha mẹ, hoạ đến bà con. Trong khi đó thì cha mẹ đau đớn không hay, đói lạnh không biết. Thấy cha như thấy nợ, thấy mẹ như thấy khách, không có khi nào hỏi han đoái hoài. Cha mẹ buồn tủi cô đơn lạnh lùng, ngủ phải ngủ nhờ, ăn phải ăn xin, ngày đêm than thở, bi thảm muôn vàn, con cái vẫn không hay biết. Cho dẫu hay biết, lại thấy thẹn thùng, thẹn thùng hơn nữa, khi thấy cha mẹ, vì tuổi tác cao, vì lo khổ nhiều, mà phải thân hình gầy ốm xấu xí, cho nên bực tức khi lăng mắng nhiếc.

Cha mẹ cao cả đáng dâng xương thịt, nhưng cho một bữa lại thấy hổ ngươi, sợ người chê cười. Còn với vợ con cù đày phục dịch trút hết mồ hôi, đổ cả tài sản, mà vẫn không hổ. Thê thiếp sai bảo thì nhất thiết thi hành, cha mẹ nói năng lại không thèm đếm xỉa. Nếu là con gái, thì khi chưa chồng tuy có hiếu thuận, nhưng lấy chồng rồi, càng thêm bất hiếu. Cha mẹ hơi sân, liền nổi oán hận, còn chồng đánh mắng, lại cam chịu nhẫn. Khác họ khác dòng mà tình nặng nghĩa sâu, xương mình thịt mình, lại coi như nước lã. Mê theo chồng con, quên ngày quên tháng, bỏ quên cha mẹ, không tin không hỏi, làm cho cha mẹ nhớ thương sầu khổ.

Ân đức cha mẹ vô lượng vô biên, tội lỗi bất hiếu vô biên vô lượng. Nói không bao giờ hết, tả không bao giờ cùng.

Tất cả đại chúng nghe đức Phật-đà kể dạy ân đức của cha mẹ như thế, toàn thân run động, hơi thở ngừng lại, mồ hôi thoát ra, lặng đi một lát, mới cao tiếng than rằng: Chúng ta là kẻ khốn nạn, đang thương đáng trách. Hồi nào đến giờ mê mờ như kẻ đi đêm, ngày nay mới biết việc làm của mình là sai lầm tội lỗi, cho nên lòng dạ đau thương, can trường thống liệt. Bèn cùng nhau bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Ân đức cha mẹ cao sâu như thế làm sao báo được?

Bấy giờ đức Như Lai bèn dùng phạm âm vi diệu như tiếng hải triều, dạy bảo đại chúng: Giả như có người vai trái cõng cha và vai mặt mang mẹ, cắt da đến xương, nghiền xương thấu tuỷ, máu đổ thịt rơi, cũng không đáp được thâm ân của cha mẹ. Giả như có ai gặp lúc đói khát, phá hoại thân thể cung phụng cha mẹ, trăm nghìn ức kiếp thường làm như thế cũng không báo được ân đức cha mẹ. Cho dẫu vì cha vì mẹ mà trăm kiếp nghìn đời, thích tròng con mắt, cắt hết tâm can, trăm nghìn dao sắt xuất nhập toàn thân, cũng không trả nổi ân đức cha mẹ. Và đến cuối cùng dầu vì cha mẹ đốt thân làm đèn cúng dường chư Phật, cũng không đáp được hồng ân cha mẹ.

Đại chúng nghe thế, lòng càng đau đớn, khóc lóc bi thảm, đồng thanh bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Thế thì làm sao mới báo được ân đức cha mẹ?

Phật dạy: Các Phật tử! Muốn báo đáp ân cha nghĩa mẹ, thì phải viết chép, trì tụng và thực hành Kinh này. Phải sám hối tội lỗi cho cha mẹ bằng cách khuyến hoá cha mẹ thực hành chánh pháp. Phải vì cha mẹ thực hành tịnh giới, bố thí các hạnh lợi tha. Nếu được như vậy mới là hiếu tử. Không làm như thế là người địa ngục.

Ân đức cha mẹ cao cả ngần nào, tội báo bất hiếu nặng nề ngần ấy. Cho nên những kẻ bất hiếu nghịch bội, tội khổ vô cùng, không chi sánh bằng, không thể nói hết.

Nếu ai lưu thông và thực hành Kinh này, tức là chân chính báo đáp được thâm ân của cha mẹ vậy. Vì báo thâm ân cha mẹ mà lưu hành Kinh này, thì cứ mỗi cuốn là như được gặp một đức Phật Đà Đại Giác. Và do uy lực của chư Phật ảnh hưởng, hợp với năng lực phước đức của người trì tụng thực hành Kinh này, nên cha mẹ người kia phước lạc vô biên, cho đến dần dần sẽ được giải thoát.

Lúc bấy giờ đại chúng nghe đức Thế Tôn dạy bảo như thế đều phát nguyện rằng: Chúng con từ nay cùng tận vị lai, dầu cho xương thịt tan nát đổ rơi, dầu cho mổ xẻ chân tay thân mạng, dầu cho sắt nóng lăn quay trên đầu, cũng nguyện nhất tâm không trái lời Phật, không phản Thánh giáo.

Tôn giả A-nan bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Khế kính quý báu này nên gọi là gì, chúng con làm sao phụng trì?

Phật dạy: A-nan! Kinh này tên là Báo Ân Cha Mẹ. Cứ như danh hiệu ấy mà các ngươi phụng trì.

Khi Phật dạy xong, tất cả đại chúng thảy đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.(CC)

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.(3 lần)

SÁM VU LAN

Đệ tử chúng con,

Vâng lời Phật dạy,
Ngày rằm tháng bảy,

Gặp hội Vu Lan,
Phạm vũ huy hoàng,

Đốt hương đảnh lễ.
Mười phương Tam thế,

Phật, Pháp, Thánh Hiền,

Noi gương đức Mục Kiền Liên,

Nguyện làm con thảo.
Lòng càng áo não,

Nhớ nghĩa thân sinh,
Con đến trưởng thành,

Mẹ dày gian khổ,
Ba năm nhũ bộ,

Chín tháng cưu mang.
Không ngớt lo toan,

Quên ăn bỏ ngủ,
Ấm no đầy đủ,

Cậy có công cha,
Chẳng quản yếu già,

Sanh nhai lam lũ.
Quyết cùng hoàn vũ,

Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,

Đem đường học đạo.
Đệ tử ơn sâu chưa báo,

Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen,

Chí thành cung kính,
Đạo tràng thanh tịnh,

Tăng bảo trang nghiêm.
Hoặc thừa tự tứ,

Hoặc hiện tham thiền,
Đầy đủ thiện duyên,

Dũ lòng lân mẫn,
Hộ niệm cho:

Bảy kiếp cha mẹ chúng con,

Đượm nhuần mưa pháp.

Còn tại thế: Thân tâm yên ổn,

Phát nguyện tu trì.
Đã qua đời: Ác đạo xa lìa,

Chóng thành Phật quả.
Ngưỡng trông các đức Như Lai,
Khắp cõi hư không,

Từ bi gia hộ. (CCC)

Nam mô Đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. (3 lần)

TÁN PHẬT

A Di Đà Phật thân kim sắc,

Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,

Bạch hào uyển-chuyển ngũ Tu-di,

Cám mục trừng thanh tứ đại hải

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa Bồ Tát chúng diệc vô-biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam Mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, tiếp dẫn đạo-sư A Di Đà Phật.

Nam Mô A Di Đà Phật. (Ít nhiều tùy hỷ hoặc đi nhiễu Phật)

Nam Mô Đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.(3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ Tát. (3 lần)

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc Thọ Tưởng Hành Thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô Sắc, vô Thọ Tưởng Hành Thức, vô Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân Ý, vô Sắc Thinh Hương Vị Xúc Pháp; vô Nhãn giới, nãi chí vô ý-thức giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão-tử, diệc vô lão-tử tận; vô Khổ Tập Diệt Đạo; vô Trí diệc vô Đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã  Ba-la-mật đa  cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã  Ba-la-mật đa  cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHÂN NGÔN

Nam Mô A Di Đà bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha, A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa, tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị, Dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)

Nghi Thức Hoàn Kinh

HỒI HƯỚNG

Phúng Kinh công đức thù thắng hạnh,

Vô biên thắng phước giai hồi hướng.

Phổ nguyện pháp giới chư chúng-sanh,

Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,

Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu.

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,

Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.

Nguyện sanh Tây-phương Tịnh độ trung,

Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu.

Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sanh,

Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.

TAM TỰ QUY

Tự quy y Phật,  đương nguyện chúng sanh, Thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy).

Tự quy y Pháp,  đương nguyện chúng sanh, Thâm nhập kinh tạng trí tuệ như hải. (1 lạy).

Tự quy y Tăng,  đương nguyện chúng sanh, Thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy).

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tử và chúng-sanh,

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

chaptay

=======

  • Lưu hành nội bộ: Chùa Đại Bi, Plano, TX
  • Đánh máy, trình bày: Bông Nguyễn
  • Post: By Admin

 

Post Comment