NGHI THỨC TANG LỄ PHẬT GIÁO
I. NHẬP LIỆM
Dương chi tịnh thủy,
Biến sái tam thiên.
Tánh không bát đức lợi nhơn thiên.
Pháp giới quảng tăng diên,
Diêt tội tiêu khiên.
Hỏa diệm hóa hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.(3)
II. SÁM CHỦ SÁI TỊNH
Phù thử thủy giả, Bát công đức thủy tự thiên chơn, Tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, Biến nhập Tỳ lô hoa tạng giới.
Cá trung vô xứ bất siêu luân, Thủy bất tẩy thủy, Diệu cực pháp thân, Trần bất nhiễm trần, Phản tác tự kỷ, Quyên trừ nội ngoại, Ðản địch đàn tràng, Sái khô mộ nhi tác dương xuân, Khiết uế ban nhi thành tịnh độ, Sở vị đạo nội ngoại, Trung gian vô trưọc uế, Thánh phàm, u hiển, Tổng thanh lương.
TÁN
Bồ Tát liễu đầu cam lộ thủy,
Năng linh nhứt đích biến thập phương.
Tinh chiên cấu uế tận quyên trừ,
Phổ sái pháp diên thường thanh tịnh.
Nam mô Cam Lồ Vương Bồ Tát.(3 lần)
(Giáo hữu mật ngôn cẫn y trì tụng)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ Đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha Bồ Đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.(3 lần)
THẬP CHÚ
1. Như Ý Bảo Luân Vương Ðà La Ni
Nam mô Phật đà da, Nam mô Ðạt ma da, Nam mô Tăng già da,
Nam mô Quán tự tại Bồ tát ma ha tát, cụ đại bi tâm giả. Ðát điệt tha: Án, chước yết ra phạt để, chấn đa mạt ni, ma ha bát đắng mế, rô rô rô rô, để sắt tra, thước ra a yết rị, sa dạ hồng, phấn ta ha. Án, bát đạp ma, chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án, bạt lặc bà, bát đắng mế hồng.
2. Tiêu Tai cát Tường Thần Chú
Nẵng mồ tam mãn đa mẫu đà nẫm, a bát ra để, hạ đa xá, ta nẵng nẫm, đát điệt tha: Án, khư khư, khư hê khư hê, hồng hồng, nhập phạ ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra bát ra nhập phạ ra, để sắt sá để sắt sá, sắt trí rị sắt trí rị, ta phấn tra ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha.
3. Công đức Bảo Sơn Thần Chú
Nam mô Phật đà da, Nam mô đạt ma da, Nam mô Tăng già da,
Án, tát đế, hộ rô rô tất đô rô chỉ lị ba, cát lị bà, tất đát rị, bố rô rị, ta phạ ha.
4. Phật Mẫu Chuẩn Ðề Thần Chú
Khể thủ quy y Tô tất đế, Ðầu diện đảnh lễ Thất câu chi, Ngã kim xưng tán Ðại chuẩn đề, Duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha: Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha.
5. Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Ðịnh Quang Minh Vương Ðà La Ni
Án, nại ma ba cát ngõa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nễ, thiệt chấp đạp, điệp tả ra tể dã, đát tháp ca đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nễ dã tháp. Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bát rị thuật đạp, đạt ra mã đế, ca ca nại, tang mã ngột cả đế, sa ba ngõa, tỉ thuật đế, ma hát nại dã, bát rị ngõa rị ta hát.
6. Dược Sư Quán Ðảnh Chơn Ngôn
Nam mô bạc dà phạt đế, bệ sát xã lũ rô, bệ lưu li bát lặc bà, hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha: Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế, ta ha.
7. Quan Âm Linh Cảm Chơn Ngôn
Án, ma ni bát di hồng, ma hát nghê nha nạp, tích đô đặc ba đạt, tích đặc ta nạp, vi đát rị cát, tát nhi cán nhi tháp, bốc rị tát tháp cát, nạp bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thắt ban nạp, nại ma rô cát, thuyết ra da, ta ha.
8. Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tì lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha.
9. Vãng Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú
Nam mô a di đà bà dạ. Ðá tha dà đá dạ. Ðá địa dạ tha, A di lị đô bà tì, A di lị đá, tất đam bà tì, A di lị đá, tì ca lan đế, A di lị đá, tì ca lan đá, Dà di nị, dà dà na, Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
10. Thiện Nữ Thần Chú
Nam mô Phật đà, Nam mô Ðạt ma, Nam mô Tăng già, Nam mô thất rị, ma ha đề tỉ da, đát nễ dã tha, ba lị phú lâu na, giá lị tam mạn đà, đạt xá ni, ma ha tì ha ra dà đế, tam mạn đà, tì ni dà đế, ma ha ca lị dã, ba nễ, ba ra ba nễ, tát lị phạ lật tha, tam mãn đà, tu bát lê đế, phú lệ na, a lị na, đạt ma đế, ma ha tì cổ tất đế, ma ha Di lạc đế, lâu bá tăng kỳ đế, hê đế tỷ tăng kỳ hê đế, tam mạn đà, a tha a nậu, bà ra ni.
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách.
Xá lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá lợi tử, thị chư pháp Không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhỉ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quá ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn; tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú: thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thế khổ, chân thật bất hư Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú.
Tức thuyết chú viết: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.”. (3 lần)
TÁN
Nguyện trú cát tường, dạ cát tường,
Trú dạ lục thời hằng cát tường,
Nhất thế thời trung cát tường giả,
Nguyện chư Thượng sư ai nhiếp thọ,
Nguyện trú cát tường, dạ cát tường,
Trú dạ lục thời hằng cát tường,
Nhất thế thời trung cát tường giả,
Nguyện chư Tam bảo ai nhiếp thọ,
Nguyện trú cát tường, dạ cát tường,
Trú dạ lục thời hằng cát tường,
Nhất thế thời trung cát tường giả,
Nguyện chư Hộ pháp thường ủng hộ.
Tứ sanh đăng ư bảo địa,
Tam hữu thác hóa liên trì,
Hà sa ngạ quỹ chứng tam hiền,
Vạn loại hữu tình đăng thập địa.
Nam mô Siêu thập địa Bồ tát Ma ha tát (3)
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhất thế,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo.
O— HẾT —O
III. LỄ CÚNG HƯƠNG LINH
- Tựu Vị – Lễ Nhị (Tứ) bái – Bình thân quỳ.
TÁN
Dĩ thử chân ngôn thân triệu thỉnh, Hương linh bất muội diêu văn tri, Trượng thừa Tam bảo lực gia trì,
Thử nhật kim thời giai phú hội.
Hương linh (a) văn triệu văn triệu thỉnh lai lâm (2 lần)
- Tả Hữu chức đồng thỉnh:
Hương vân thỉnh, hương vân thỉnh.
- Sám chủ thỉnh Linh (Hán, Việt tùy)
- Đồng thanh:
Triệu thỉnh Hương Linh dĩ lai lâm,
Thọ thử hương hoa phổ cúng dường,
Y diên thỉnh tọa thính kinh văn,
Diễn Kinh Văn Bồ tát Ma ha tát.
- Sơ hiến trà – Lễ Nhị bái – Bình thân quỳ.
CÚNG DƯỜNG
Nam mô Đa Bảo Như Lai
Nam mô Bảo Thắng Như Lai
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai
Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai
Nam mô A Di Đà Như Lai.
BIẾN THỰC CHƠN NGÔN
Nam mô tát phạ đát tha nga đa, phạ lô chỉ đế. Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng.(3)
CAM LỒ THỦY CHƠN NGÔN
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô, tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng.(3 lần)
TÁN
Sắc Hương mỹ vị biến hư không,
Duy nguyện hương linh giai bảo mãn.
Nam Mô Mỹ Hương Trai Bồ Tát.(3 lần)
- Tái hiến trà – Lễ Nhị bái
- Đồng Tụng: (hoặc 1 trong các bài sám)
Đây vật thực thơm ngon tinh khiết
Của gia đình dâng cúng hương linh
Biết bao ơn nghĩa ân tình
Tĩnh tâm thọ lãnh, hương linh an lành.
Thọ thực xong tâm thành nghe pháp
Hiểu thế gian vui ít khổ nhiều
Kiếp người như nắng buổi chiều
Như sương buổi sớm lắm điều đổi thay
Đời đau khổ bởi đầy mê muội
Ích kỷ sâu, lầm lỗi càng tăng.
Kiêu căng, làm bậy sống càn
Chẳng so tội phước, chẳng màng nghiệp duyên
Đời hạnh phúc khi lòng rộng mở
Trọn vòng tay giúp đỡ thương nhau
Từ tâm đức hạnh nhiệm mầu
Ác duyên chấm dứt về mau cõi lành
Hương linh phát tâm thành theo Phật
Đấng đại hùng, đại lực, đại bi.
Tin sâu giáo lý diệu kỳ
Cứu người biển khổ thoát ly ách nàn
Thọ thực xong an lành mãn nguyện
Cùng pháp mầu huyền nhiệm cao sâu
Hương linh hết khổ hết sầu
Hết tâm phiền muộn vui câu an nhàn.(C)
Nam mô tây phương cực lạc thế giới, đại từ đại bi, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật. (Tùy Duyên)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Đại-hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát.
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ-tát.
TÁN
A Di Đà Phật, túc hữu vô biên thệ, quán kiến mê đồ, khổ hải thường phiêu nịch, thủy thủ ân cần, đặc giá từ hàng tế, phổ tải chúng sanh, đồng phú Liên trì hội.
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ tát.
(Hoặc Tán:)
*-Bái sám công đức, vong giả sanh đao lợi, pháp bảo linh văn, du vong cầu sám hối, Thập điện minh vương, xả trừ vô biên tội, Hoan Hỷ Địa Bồ Tát, dẫn nhập Long Hoa hội, Long Hoa tam hội nguyện tương phùng (3 lần)
*- Dương Tử giang tâm thủy, Mông Sơn đảnh thượng trà, Hương linh tam ẩm liễu, Tảo sanh pháp vương gia.
*-Phiêu phiêu tế độ thiền, từ tôn quá hải biên, tiếp dẫn hương hồn khổ, đàn chỉ đáo Tây phương.
*-Ái hà thiên xích lãng, khổ hải vạn trùng ba. Dục thoát luân hồi khổ, tảo cấp niệm Di Đà.
*- Dương Tử Giang tâm thủy, Mông Sơn đảnh thượng trà. Hương linh tam ẩm liễu, tảo sanh pháp vương gia.
*-Cẩn y tam thừa giáo, xướng tụng thất Như Lai. Hương linh thừa Phật lực, thát hóa bảo liên đài.
*-Kiến văn như huyễn ế, tam giới nhược không hoa. Văn phục ế căn trừ, trần tiêu giác viên tịnh.
*-Hoa Nghiêm bảo diễn, lâu các môn khai. Chung tiến Triệu Châu trà, hương linh quy khứ lai.
VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nam mô a di đà bà dạ. Ðá tha dà đá dạ. Ðá địa dạ tha, A di lị đô bà tì, A di lị đá, tất đam bà tì, A di lị đá, tì ca lan đế, A di lị đá, tì ca lan đá, Dà di nị, dà dà na, Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
- Chung hiến trà – Lễ Tứ bái
Nam kha nhất mộng đoạn,
Tây vức cửu liên khai,
Phiên thân quy tịnh độ,
Hiệp chưởng lễ Như Lai.
- Ðồng hòa:
Nam mô A Di Ðà Phật
O— HẾT —O
IV. LỄ PHÁT TANG
Sám chủ pháp ngữ:
Ân đức thân Phụ (từ Mẫu) khó đền
Núi cao biển rộng con nguyền khắc ghi.
Trước linh đài Tang Cha (Mẹ) con thọ,
Nguyên suốt đời nhớ mãi ân Cha (Mẹ).
(Toàn thể con cháu quỳ trước linh đài thành kính thọ tang. Và Đại chúng đồng Tụng:)
Đây vành khăn trắng ngang đầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân
Lòng thành tưởng nhớ người thân
Anh em cha mẹ ân nhân họ hàng
Công cha nặng cao bằng non Thái.
Nghĩa mẹ sâu Đông Hải trùng dương.
Phu thê… duyên nợ đoạn trường
Cả đời nương tựa đôi dường cách xa.
Tình huynh đệ ruột rà ràng buộc
Nghĩa họ hàng quyến thuộc tình thân
Vô thường già trẽ chẳng phân
Âm dương cách biệt sơ thân hai đường
Nay tử biệt sinh ly cách trở
Mà thế trần duyên nợ đa mang
Hương linh tỉnh ngộ rõ ràng
Nương theo chánh pháp ngập tràn tình thương
Cúi lạy Phật mười phương gia hộ
Rải lòng từ tiếp độ hương linh
Chánh tà phải biết phân minh
Nương nhờ Phật lực tâm linh sáng dần
Hương linh nguyện chân thành học Phật
Hiểu thế gian muôn vật đổi dời
Thoát vòng sanh tử luân hồi
Nhất tâm tĩnh niệm thảnh thơi an nhàn
Hương linh nguyện siêng làm việc thiện
Dứt tham sân, đoạn tận gian tà
Mở lòng từ ái vị tha
Độ người, giúp vật thoát ra thế trần
Dâng trọn vẹn lòng thành tưởng niệm
Chấp tay sen khấn nguyện mười phương
Nguyện trên chư Phật tỏ tường
Cho hương linh được về nương cõi lành.
Nam Mô Tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
TÁN (1 trong 2 bài)
*Dương Tử giang tâm thủy, Mông Sơn đảnh thượng trà, Hương linh tam ẩm liễu, Tảo sanh pháp vương gia.
*Vô Biên Phiền não đoạn. Vô lượng pháp môn tu. Thệ nguyện độ chúng sanh, tổng nguyện thành Phật đạo.
- Chung hiến trà – Lễ Tứ bái
Nam kha nhất mộng đoạn, Tây vức cửu liên khai, Phiên thân quy tịnh độ, Hiệp chưởng lễ Như Lai.
- Ðồng hòa: Nam mô A Di Ðà Phật.
O— HẾT —O
KINH A DI ĐÀ
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3)
Đây là những điều tôi đã được nghe Phật nói vào một thời người còn cư trú ở tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây của thái tử Kỳ Đà. Hồi đó cùng ở bên Phật có một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ, trong đó có những vị A La Hán đệ tử lớn của Phật mà ai cũng biết đến như các thầy Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Câu Hy La, Ly Bà Đà, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lư Đà Di, Kiếp Tân Na, Bạt Câu La và A Nậu Lâu Đà. Lại cũng có mặt các vị Bồ Tát đại nhân như Văn Thù, A Dật Đà, Càn Đà Ha Đề, Thường Tinh Tấn, và rất nhiều các vị Bồ Tát lớn như thế, cùng với chư thiên như Thích Đề Hoàn Nhân, nhiều đến vô lượng, đều cùng có mặt.
Lúc bấy giờ Phật gọi thầy Xá Lợi Phất và bảo: “Từ đây đi qua phương Tây, cách khoảng mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực Lạc, trong cõi ấy có một vị Phật tên là A Di Đà, hiện đang thuyết pháp.
Này Xá Lợi Phất, đất nước ấy vì sao tên là Cực Lạc? Bởi vì dân chúng trong nước ấy không biết khổ là gì, chỉ hưởng thụ mọi thứ an lạc, cho nên cõi ấy được gọi là Cực Lạc.
Này nữa, Xá Lợi Phất, ở nước Cực Lạc, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, tất cả đều được làm bằng bốn thứ châu bảo, bao quanh giáp vòng, vì vậy cõi ấy được gọi là Cực Lạc.
Này nữa, Xá Lợi Phất, ở nước Cực Lạc có rất nhiều hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám công đức, dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những lối đi làm bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê; phía trên các con đường ấy lại có vô số lâu đài, cũng được xây dựng và trang trí bằng các chất liệu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não. Sen trong các hồ lớn như những chiếc bánh xe, sen xanh chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ, sen trắng chiếu hào quang trắng, hương sen tỏa ra vi diệu và tinh khiết.
Xá Lợi Phất! Nước Cực Lạc được tô điểm bằng những cái đẹp như thế.
Này nữa, Xá Lợi Phất! Ở nước Phật ấy, người ta thường được nghe nhạc từ hư không vọng xuống. Đất được làm bằng vàng ròng. Mỗi ngày sáu lần có mưa hoa mạn đà la rơi xuống. Dân chúng nước ấy có thói quen buổi sáng lấy lẵng hứng đầy các bông hoa mầu nhiệm ấy để đem đi cúng dường các vị Phật đang cư trú ở vô số các cõi Phật khác. Đến giờ cơm trưa, mọi người đều về kịp nước mình để ăn cơm rồi đi kinh hành. Xá Lợi Phất, nước Cực Lạc đẹp tuyệt vời như thế đấy.
Này nữa, Xá Lợi Phất! Ở nước Cực Lạc kia, thường có nhiều loại chim đủ màu rất kỳ diệu như Hạc trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá lợi, Ca lăng tần già và Cọng mạng… Những con chim ấy, sáu buổi mỗi ngày, thường hót lên những thanh âm hòa nhã: trong giọng hót của chúng, người ta nghe được tiếng diễn xướng các pháp môn ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần… Dân chúng trong nước nghe được những pháp âm như thế đều nhiếp tâm trở về thực tập niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng.
Xá Lợi Phất, thầy đừng tưởng rằng các loài chim ấy đã được sinh ra trên căn bản nghiệp báo. Tại sao? Tại vì ở nước Phật kia không có ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Xá Lợi Phất! Ở nước ấy danh từ ác đạo mà còn không có, huống hồ là sự thực về ác đạo. Những con chim kia đã được Phật A Di Đà biến hóa ra với mục đích là làm cho pháp âm được tuyên lưu rộng rãi trong xứ của ngài.
Xá Lợi Phất, ở nước Phật ấy, mỗi khi có gió nhẹ xao động các hàng cây và các màn lưới châu báu thì người ta được nghe những âm thanh vi diệu, giống như là có trăm ngàn nhạc khí cùng được tấu lên một lần. Người dân nước ấy mỗi khi nghe các âm thanh kia thì đều nhiếp tâm niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng. Xá Lợi Phất, nước Cực Lạc đẹp tuyệt vời như thế đấy.
Xá Lợi Phất! Thầy nghĩ sao? Đức Phật kia tại sao có tên là A Di Đà? Xá Lợi Phất! Tại vì đức Phật ấy là ánh sáng vô lượng có thể chiếu soi được tất cả các cõi nước trong mười phương mà ánh sáng ấy không hề bị ngăn cách. Vì vậy nên ngài được gọi là A Di Đà.
Hơn nữa, Xá Lợi Phất! Thọ mạng của đức Phật ấy cũng như của dân chúng trong nước ngài là thọ mạng vô lượng kéo dài tới vô lượng vô biên kiếp A Tăng Kỳ, vì vậy cho nên danh hiệu của ngài là A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Từ khi Phật A Di Đà thành đạo đến nay tính ra là đã mười kiếp. Này nữa, Xá Lợi Phất! Số đệ tử thanh văn đã đắc quả A La Hán của đức Phật ấy nhiều vô lượng, không thể đếm được bằng toán học, số đệ tử Bồ Tát của ngài cũng đông đảo như thế.
Này Xá Lợi Phất! Nước Phật kia đã được xây dựng bằng những công đức đẹp đẽ như thế.
Này nữa Xá Lợi Phất! Tất cả những ai sinh về nước Cực Lạc đều có tư cách bất thối chuyển, trong số ấy có nhiều vị đã là Bồ Tát nhất sinh bổ xứ. Số lượng của các vị này đông đảo vô cùng, không thể dùng toán học mà kiểm đếm được, ta chỉ có thể dùng danh từ vô số A Tăng Kỳ để diễn tả mà thôi.
Xá Lợi Phất! Chúng sinh mọi nơi khi nghe nói tới nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về nước ấy. Tại sao? Tại vì sanh về nước ấy thì sẽ được sống chung và gần gũi với rất nhiều các bậc thiện nhân cao đức.
Xá Lợi Phất! Những kẻ thiếu phúc đức và căn lành thì ít hy vọng được sinh về cõi ấy. Vì vậy, Xá Lợi Phất, người con trai lành hay người con gái lành nào muốn sinh về cõi ấy thì khi nghe đến danh hiệu Phật A Di Đà phải nắm lấy danh hiệu ấy mà hết lòng thực tập quán niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn, hoặc trong vòng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày. Người ấy, đến khi lâm chung, sẽ được thấy Phật A Di Đà và các vị thánh chúng nước ấy hiện ra trước mặt. Trong giờ phút ấy, tâm ý người kia sẽ an trú trong định, không hề điên đảo và tán loạn, do đó người ấy được vãng sinh ngay về nước Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Vì thấy được cái lợi ích lớn lao này cho nên tôi muốn nói với quý vị rằng những ai đang nghe tôi nói đây hãy nên phát nguyện sinh về nước ấy.
Xá Lợi Phất, nếu trong giờ phút hiện tại tôi đang ca ngợi những lợi ích và công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà thì tại phương Đông có các vị Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm và các vị Phật khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: ‘Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Phật trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.’
Xá Lợi Phất, tại phương Nam có các vị Phật Nhựt Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn và các vị Phật khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: ‘Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Phật trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.’
Xá Lợi Phất, tại phương Tây có các vị Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang và các vị Phật khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: ‘Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Phật trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.’
Xá Lợi Phất, tại phương Bắc có các vị Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhựt Sanh, Phật Võng Minh và các vị Phật khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: ‘Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Phật trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.’
Xá Lợi Phất, tại phương Dưới có các vị Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp và các vị Phật khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: ‘Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Phật trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.’
Xá Lợi Phất, tại phương Trên có các vị Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn và các vị Phật đông khác như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: ‘Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Phật trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.’
Xá Lợi Phất! Thầy nghĩ sao? Tại sao gọi kinh này là kinh mà tất cả các Phật đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm?
Sở dĩ như thế, là vì những người con trai hoặc con gái nhà lành nào nghe được kinh này và nghe được danh hiệu Phật A Di Đà, hết lòng hành trì và thực tập theo phép niệm Phật thì những vị ấy sẽ được tất cả các vị Phật hộ niệm, và tất cả sẽ đạt tới quả vị giác ngộ cao tột, không còn bị thối chuyển. Vì vậy cho nên quý vị hãy tin vào lời tôi đang nói, và cũng là lời chư Phật đang nói.
Xá Lợi Phất, nếu có người đã, đang, hay sẽ phát nguyện sinh về nước Phật A Di Đà, thì người ấy ngay trong giờ phát nguyện đã đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển và đã có mặt tại cõi nước ấy rồi, không kể đến sự kiện là người ấy đã sinh, đang sinh, hay sẽ sinh về đó.
Xá Lợi Phất, trong khi tôi đang ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, thì chư Phật cũng đang xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của tôi, và nói: ‘Phật Thích Ca Mâu Ni thật là hiếm có. Ngay trong cõi ta bà đầy dẫy năm yếu tố ô nhiễm là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược mà ngài có thể chứng đắc được quả vị giác ngộ vô thượng và còn tuyên thuyết được cho chúng sinh những pháp môn mà bất kỳ ở đâu, mới nghe qua người ta cũng rất khó mà phát sinh niềm tin.’
Xá Lợi Phất! Thầy nên hiểu cho rằng cư trú trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt tới được quả vị giác ngộ vô thượng và còn diễn giải được cho mọi giới những pháp môn rất khó tin như pháp môn này, đó là một việc làm quả là cực kỳ khó khăn.”
Nghe Phật nói kinh này, thầy Xá Lợi Phất, tất cả các vị khất sĩ, và mọi giới Thiên, Nhân, A Tu La, v.v… ai cũng phát lòng tin tưởng, tiếp nhận, làm lễ Phật và lui về trú sở của mình.
VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHÂN NGÔN
Nam Mô A Di Đà bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha, A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa, tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị, Dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI
Đệ tử chúng con từ vô thỉ,
Gây bao tội ác bởi lầm mê,
Đắm trong sanh tử đã bao lần,
Nay đến trước đài vô thượng giác;
Biển trần khổ lâu đời luân lạc,
Với sinh linh vô số điêu tàn,
Sống u hoài trong kiếp lầm than,
Con lạc lõng không nhìn phương hướng,
Đàn con dại, từ lâu vất vưởng,
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng,
Xin hướng về núp bóng từ quang,
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.
Bao tội khổ trong đường ác trược,
Vì tham, sân, si, mạn gây nên,
Con hôm nay giữ trọn lời nguyền,
Xin sám hối để lòng thanh thoát;
Trí huệ quang minh như nhựt nguyệt,
Từ bi vô lượng cứu quần sinh,
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình,
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi,
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải,
Nương thuyền từ vượt bể ái hà,
Nhớ lời Ngài, “Bờ giác không xa
Hành thập thiện cho đời tươi sáng,
Bỏ việc ác, để đời quang đãng,
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân”.
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng,
Con nguyện được sống đời rộng rãi,
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng sanh,
Để theo Ngài trên bước đường lành,
Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ;
Chúng con khổ, nguyền xin tự độ,
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời,
Phá si mê, trí huệ tuyệt vời,
Con nhớ đức Di Đà Lạc quốc,
Phật A Di Đà thân kim sắc,
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào,
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc,
Trong hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Quy mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin đức Từ bi tiếp độ.(CCC)
Nam Mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, tiếp dẫn đạo-sư A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật. (30-108 lần)
Nam Mô Đại Từ Di Lặc Tôn Phật. (3)
Nam Mô Đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát. (3)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3)
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3)
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
TÁN
*-Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba. Dục thoát luân hồi khổ. Cấp cấp niệm Di Đà.
*- A Di Đà Phật, túc hữu vô biên thệ. Quán kiến mê đồ, khổ hải thường phiêu nịch Thủy thủ ân cần, đặc giá từ hàng tế. Phổ tải chúng sanh, đồng phú Liên trì hội.
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ tát.
- Chung hiến trà – Lễ Nhị (Tứ) bái
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu.
Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sanh,
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
- Chủ Lễ:
Duy Nguyện Hương linh:
Nhẹ gót lên đường về cõi Phật.
Xa lìa phiền não chốn trần ai
Hoa sen chín phẫm là cha mẹ,
Vui đặng tiêu dao chốn Phật đài.
Nam Mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
O— HẾT —O
PHỤ CHÚ: CÁC BÀI SÁM
1- KHAI THỊ VONG LINH SÁM
Cuộc trần thế là trò dâu bể
Họp rồi tan như thể gió mây
Bất thường, biến chuyển, vần xoay
Hôm qua còn đó mà nay đâu rồi?
Bởi mạng sống tất hơi yếu ớt
Kiếp nhân sinh thoáng một giấc mơ
Trăm năm thay đổi ván cờ
Sấm vang, chớp giật, tựa hồ chiêm bao.
Vong linh hỡi! Trần lao nghiệp chướng
Lò oan khiên thiêu nướng con người
Luân hồi sanh tử không thôi
Xuống lên ba cõi, say mê sáu đường.
Thêm nỗi bệnh tai ương hoạn nạn
Thuở thai nhi đến mãn cuộc đời
Mấy người sống vẹn yên vui
Giữa vòng trần thế chơi vơi biển sầu.
Dù là kẻ sang giàu quyền tước
Hay nghèo hèn mạt nhược như nhau
Đều cùng chung một nỗi đau
Vì duyên, vì nợ xiết bao buộc ràng.
Đời đã vậy thở than chẳng được
Bởi gieo nhơn nhiễm trước vọng tình
Trót mê tài, sắc, lợi, danh
Lu mờ tâm trí, đua tranh hận thù.
Nên ngàn kiếp lu bu không dứt
Bả vinh hoa nô nức bước vào
Mặc cơn sóng dậy ba đào
Ôm mùi phú quí lộn nhào tử sanh.
Vong linh hỡi! Cái thân còn mất
Thì có gì bền chắc mà ham
Rõ ràng muôn việc cõi trần
Chết rồi tay trắng có mang được gì?
Vậy giờ đây hãy suy nghĩ lại
Quyết vượt qua cửa ải trầm luân
Một lòng theo Phật tu thân
Rèn tâm sửa tánh lần lần thoát ra.
Cõi Ta Bà chỉ là quán trọ
Chúng sanh là lữ khách bộ hành
Theo dòng sanh tử lộn quanh
Bỏ quên xứ sở an thân Niết bàn.
Vong linh hỡi! Nay nhân duyên mãn
Thì xin đừng ngao ngán đường về
Dù trải bao cảnh khiếp ghê
Dù bao đe doạ bốn bề hang sâu.
Xả tâm tưởng gom thâu từ trước
Diệt tham sân si bước lỡ lầm
Chuyên lòng niệm Phật định tâm
Quê hương Cực lạc vững chân đường về.
Vong linh hỡi! Xa rời luyến tiếc
Cái giả thân, tài vật, gia đình
Đừng gây thêm khổ cho mình
Vì âm dương đã chia hình cách xa.
Hãy gấp niệm Di Đà Phật hiệu
Định tâm thần quán chiếu đừng quên
Bồ đề quả Phật quyết lên
An vui vĩnh kiếp giác tâm tròn đầy.
Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma Ha Tát. (3)
2- TỐNG TÁNG SÁM
Ϲuộc hồng trần xoaу vần quá ngán
Kiếp phù sinh tụ tán mấу lăm hồi
Ɲgười đời có biết chăng ôi !
Thân nầу tuу có, có rồi lại không.
Ϲhiêm bao khéo khuấу lạ lùng
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi
Làm cho buồn bã thế ni
Hôm qua còn đó bữa naу mất rồi
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi
Ɓâу giờ thiêm thiếp như chồi câу khô
Khi nào du lịch giang hồ
Ɓâу giờ nhắm mắt mà vô quan tài
Khi nào lược giắt trâm cài
Ɓâу giờ gởi xác ra ngoài gò hoang
Khi nào trau ngọc chuốc vàng
Ɓâу giờ một nắm xương tàn lạnh tanh
Khi nào mắt đẹp màу xanh
Ɓâу giờ thấу dạng thấу hình là đâu
Khi nào lên các xuống lầu
Ɓâу giờ một nắm cỏ sầu xanh xanh
Khi nào liệt liệt oanh oanh
Ɓâу giờ một trận tan tành gió mưa
Khi nào ngựa lọc xe lừa
Ɓâу giờ mâу rước trăng đưa mơ màng
Khi nào ra trướng vào màn
Ɓâу giờ nhà cửa xóm làng cách xa
Khi nào mẹ mẹ cha cha
Ɓâу giờ bóng núi khuất xa muôn trùng
Khi nào vợ vợ chồng chồng
Ɓâу giờ trăng khuуết còn mong chi tròn
Khi nào cháu cháu con con
Ɓâу giờ hai ngã nước non xa vời
Khi nào cốt nhục vẹn mười
Ɓâу giờ lá héo nhành tươi vui gì
Khi nào bạn hữu sum vầу
Ɓâу giờ chén rượu cuộc kỳ vắng thiu.
Ϲái thân như tấc bóng chiều
Ɲhư chùm bọt nước phập phều ngoài khơi
Xưa ông Ɓành-Tổ sống đời
Tám trăm tuổi thọ naу thời còn đâu
Ѕang mà đến bậc công hầu
Giàu mà đến bậc mấу lâu Thạch-Ѕùng
Ɲghèo mà đói khát lạnh lùng
Khổ mà tóc cháу da phồng trần ai
Phù du sớm tối một mai
Giàu sang cũng chết xạt xài cũng vong
Thông minh tài trí anh hùng
Ɲgu si dại dột cũng chung một gò
Ɓiển trần nhiều nỗi gaу go
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê
Ѕự đời nên chán nên chê
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn.
Vong hồn ơi hởi vong hồn !
Ϲuộc đời naу biển mai cồn tỉnh chưa ?
Tỉnh rồi một giấc saу sưa
Ѕẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về
Hồn về Ϲực Lạc nước kia
Ϲho xa hang quỉ mà lìa kiếp ma
Ɲhờ ơn đức Phật Ɗi Đà.
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang
Trong khi tiếp rước rỡ ràng
Ɗắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhơn
Quan-Âm Ɓồ tát vui mừng
Taу cầm nhành liễu taу bưng kim đài
Với cùng Thế-Ϲhí các Ɲgài
Ϲũng đều khuуến thỉnh lên ngai sen vàng
Ϲó bảo-cái có tràng-phan
Ϲó mùi hương lạ có đàng ngọc xâу
Ϲó trời các cõi truу tùу
Ϲó đàn có trống rước đi một đường.
Rước về đến cảnh Tâу phương
Ϲó ao thất bảo, có hương ngũ phần
Lưu-lу có đất sáng ngần
Ma ni có nước trong tần chảу quanh
Thất trân có bảу lớp thành
Ɓảу hàng câу báu, bảу vành lưới châu
Ϲó ngân cát có kim lầu
Ϲó chim nói pháp nhiệm màu dễ nghe
Ɲghe rồi tỏ đạo Ɓồ Đề
Ɓao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền
Đã sanh về chín phẩm sen
Mấу tai cũng xảу mấу duуên cũng tròn
Phật như thể mẹ tìm con
Ϲon mà gặp mẹ lại còn lo chi.
Lầu vàng đài báu thiếu gì
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu
Không ơn, không oán, không sầu
Không già, không chết có đâu luân hồi
Tánh xưa naу đã tỏ rồi
Gương xưa naу đã lau chùi trần nhơ
Lựa là phải ngộ thiên cơ
Mà đèn trí huệ dễ lờ đi đâu
Mấу lời hộ niệm trước sau
Ɲguуện cho thành Phật mau mau nữa mà
Phân thân ra cõi Ta-bà
Từ-bi tiếp độ những là chúng sanh.
3- SÁM BÁO HIẾU PHỤ THÂN
Thành tâm báo hiếu con quỳ,
Phụ thân nay đã biệt ly dương trần
Con chưa đáp được mười ân,
Mà nay cha đã qua phần còn đâu.
Nhắc thôi thêm thảm thêm sầu
Tâm con chưa trọn được câu sinh thành
Từ nay cha đã khuất hình
Trước sau vắng vẻ gia đình quạnh hiu.
Bỏ con thơ dại chíp chiu
Đâu như còn sống mà kêu con về,
Công lao khó nhọc nhiều bề
Đêm ngày lo lắng nặng nề vì con
Bao năm giáo dưỡng hao mòn,
Chăm nuôi con trẻ đâu được rảnh rang.
Lắm lời cầu nguyện vái van
Cho con khôn lớn nên đường công danh.
Rồi nay con được trưởng thành
Chưa hề báo đáp công sinh lần nào.
Sinh thành dưỡng dục cù lao
Gia đình gánh nặng làm sao an nhàn.
Thương con cha bỏ sao đành,
Nay vì số phận cha đành biệt ly.
Nhỏ còn thơ dại biết chi,
Lớn khôn mới rõ cha thì dầy công.
Từ nay hết đợi hết trông,
Thi hài cha gửi ra đồng cỏ xanh.
Về thăm đâu thấy bóng hình,
Bàn hương vắng vẻ đèn xanh nhang tàn.
Lòng con thương nhớ thở than
Cơm dâng ba bát vái van cha về.
Chứng cho con cháu đồng quỳ,
Nguyện cha về chốn Liên Trì lạc bang.
Thành tâm con lập trai đàn,
Nhờ ơn Phật Tổ chứng đàn khai Kinh.
Con cầu chư Phật chứng minh,
Địa Tạng Bồ Tát thương tình độ vong.
Con nay cầu nguyện hết lòng,
Cầu cho từ phụ thoát vòng khổ luân.
Mới là đáp được thâm ân,
Ơn cao như núi, nghĩa gần biển sâu.
Thành tâm khấn nguyện cúi đầu
Từ bi tiếp dẫn xin cầu vãng sinh
Nguyện cho hồn đặng an lành,
Đồng về Cực lạc, đồng sinh sen vàng.
Nam mô Tịnh Độ lạc bang,
Độ vong hồn đặng Tây phương mau về.
4- SÁM BÁO HIẾU MẪU THÂN
Báo ân nghĩa trọng vô biên,
Huyên đường nay đã huỳnh tuyền xa chơi,
Dương trần con chịu mồ côi,
Hai mươi bốn thảo chưa bồi dưỡng sinh,
Nhớ câu đất rộng trời dài,
Sông sâu bể thẳm non đoài cách xa,
Mẹ hiền khuất dạng trong nhà,
Bỏ con thơ dại vào ra một mình,
Đau lòng vì nỗi tử sinh,
Nhớ thương Từ Mẫu dứt tình biệt ly,
Cháu con sầu thảm ai bi,
Ra vào chẳng thấy dung nghi hàng ngày,
Trời cao đất thẳm có hay,
Mẹ con xa cách càng cay càng phiền,
Con còn vui sống triền miên,
Mất Mẹ gan ruột đảo điên muôn phần,
Than ôi, Từ Mẫu thâm ân,
Biết đâu tìm kiếm phân vân đêm ngày.
Nhớ ơn cúc dục cao dày,
Bây giờ chỉ thấy linh đài lạnh tanh,
Sớm khuya lặng lẽ một mình,
Vắng sau quạnh trước bóng hình Mẫu Thân,
Dưỡng sanh non biển sánh bằng,
Cưu mang mười tháng dạ hằng lo âu,
Nhiều khi Am Tự khấn cầu,
Cho con mạnh khỏe ngày sau nối dòng,
Khi con vừa mới lọt lòng,
Ba năm bú mớm ẵm bồng trên tay,
Mẹ Cha vất vả đêm ngày,
Trông con mau lớn chẳng nài công lao,
Nhứt là những lúc ốm đau,
Mẹ Cha khổ cực không sao nghĩ bàn,
Thuốc thang luống chịu cơ hàn,
Thấy con mạnh khỏe hân hoan vui mừng,
Khuyên con ăn ở có chừng,
Nào là trai gái giữ thuần nết na,
Dạy con khắp hết việc nhà,
Mẫu từ, Tử hiếu thuận hòa nên danh,
Bây giờ nhìn nấm mồ xanh,
Mộ đầy cỏ mọc chung quanh bịt bùng,
Về nhà thấy dạng chân dung,
Đèn hương khói tỏa nhớ cùng Mẫu Thân,
Nhớ Mẹ đau khổ muôn phần,
Tìm đâu gặp đặng Mẫu Thân dễ dàng,
Lòng con thương nhớ khóc than,
Cơm dưng ba bát vái van Mẹ dùng,
Làm sao trả thảo báo ân,
Đôi hàng châu lụy tuôn dòng thở than,
Đêm thâu giấc mộng mơ màng,
Giựt mình thức giấc bàng hoàng năm canh,
Mẹ đà về chốn Diêm thành,
Bỏ con dương thế cam đành xót xa,
Ruột đau từ đoạn thiết tha,
Nhớ thương Từ Mẫu lệ sa khôn cầm,
Năm canh con trẻ đang nằm,
Áo khô nước mắt ướt dầm như mưa,
Hồn về chín suối xa đưa,
Diêm la quỷ sứ ngưu lừa gớm ghê,
Suối vàng cũng gọi là quê,
Ai ai không khỏi đọa về khổ thân,
Làm con báo hiếu chuyên cần,
Nguyện cầu Phật Tổ oai thần cứu ra.
Ngày nay thiết lễ Trai gia
Lòng thành cầu Phật Di Đà chứng minh,
Quan Âm, Thế Chí đồng thinh,
Đức Ngài Địa Tạng độ hình Mẫu Thân,
Hà sa Chư Phật Long Thần,
Phóng quang tiếp dẫn Mẫu Thân thượng trình,
Hương hồn về chốn Phật đình,
Sen vàng chín phẩm hóa hình ngồi trong,
Ngồi trên phẩm báu hư không,
Nương theo chơn Phật thong dong Lạc thành,
Mẹ đã về cõi vô sanh,
Tội tiêu nghiệp dứt quả lành muôn năm.
Lạy cầu Chư Phật từ tâm,
Di Đà thọ ký hồn âm trọn lành,
Nguyện hồn về chốn Lạc thành,
Chứng ngôi bất thối vô sanh đời đời,
Cầu cho hồn đặng thảnh thơi,
Hộ trì tang quyến đến nơi đạo tràng,
Tụng kinh lễ Phật cầu an,
Phát tâm tu niệm Lạc bang mau về.
5- SÁM VU LAN
Đệ tử chúng con,
Vâng lời Phật dạy,
Ngày rằm tháng bảy,
Gặp hội Vu Lan,
Phạm vũ huy hoàng,
Đốt hương đảnh lễ.
Mười phương Tam thế,
Phật, Pháp, Thánh Hiền,
Noi gương đức Mục Kiền Liên,
Nguyện làm con thảo.
Lòng càng áo não,
Nhớ nghĩa thân sinh,
Con đến trưởng thành,
Mẹ dày gian khổ,
Ba năm nhũ bộ,
Chín tháng cưu mang.
Không ngớt lo toan,
Quên ăn bỏ ngủ,
Ấm no đầy đủ,
Cậy có công cha,
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lũ.
Quyết cùng hoàn vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,
Đem đường học đạo.
Đệ tử ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen,
Chí thành cung kính,
Đạo tràng thanh tịnh,
Tăng bảo trang nghiêm.
Hoặc thừa tự tứ,
Hoặc hiện tham thiền,
Đầy đủ thiện duyên,
Dũ lòng lân mẫn,
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
Đượm nhuần mưa pháp.
Còn tại thế: Thân tâm yên ổn,
Phát nguyện tu trì.
Đã qua đời: Ác đạo xa lìa,
Chóng thành Phật quả.
Ngưỡng trông các đức Như Lai,
Khắp cõi hư không, Từ bi gia hộ. (CCC)
Nam mô Đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. (3 lần)
6- KỆ BÁO HIẾU PHỤ MẪU ÂN
Một thuở nọ, Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Phật mới bảo: A Nan nên biết
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con mười tháng cưu mang
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng.
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn.
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau, sự khổ, khôn cùng tỏ phân
Khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc, được vàng.
Thế Tôn lại bảo A Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin.
Ðiều thứ nhứt: giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề.
Thứ hai: sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.
Ðiều thứ ba: thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay.
Thứ tư: ăn đắng uống cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con.
Ðiều thứ năm: lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con.
Thứ sáu: bú sữa nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.
Ðiều thứ bảy: không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.
Thứ tám: chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền, mẹ lo.
Ðiều thứ chín: miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam, bị cầm.
Ðiều thứ mười: chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.
Phật lại bảo: A Nan nên biết,
Trong chúng-sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân.
Chẳng kính mến quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mạc giao
Vì những người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy.
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan.
Con còn nhỏ phải lo săn sóc
Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con
Phải tắm phải giặt thân con
Biết rằng dơ dáy, mẹ không ngại gì.
Nằm phía ướt, con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng.
Cho đi học mở thông trí huệ
Dựng vợ chồng có thế làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang.
Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ, lễ nghi chẳng tường.
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên.
Vì lỗ mãng tánh quen càn bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn, lại càng hành hung.
Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ
Nết tập quen, làm sự trái ngang
Công danh sự nghiệp cuộc đời
Bỏ xa cha mẹ phiêu du quê người.
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân, tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công.
Vì ràng buộc đồn công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quên xứ, quên sở, lâu năm không về.
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.
Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù rạc phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc âu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn vương.
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du.
Cứ mải miết với đồng bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng, bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai, dễ khiến hơn là nam nhi.
Song đến lúc, tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhàn.
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay!
Nếu cha mẹ la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miênThì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay.
Bọn con quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ, không hơn người mù.
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu.
Trước Phật tiền, ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Ðồng thanh bạch Phật lời rằng:
Làm sao trả đặng ân thâm song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử:
Phải lắng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải nên biên chép Kinh đây lưu truyền.
Vì cha mẹ tinh chuyên tu tập
Cùng ăn năn chừa bỏ lỗi xưa
Tụng kinh lễ bái sớm trưa
Phóng sanh bố thí, cúng dường thành tâm
Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh Ðộ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
7- PHẬT NÓI KINH VÔ THƯỜNG
(Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh dịch ra chữ Hán)
Tôi nghe như vậy. Một thời Phật tại thành Thất la phiệt nơi rừng Thệ đa, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Phật bảo các Tỳ kheo rằng trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì? Là già, bệnh, chết. Này các Tỳ kheo, nếu trong thế gian không già, bệnh, chết thì Như Lai ứng chánh đẳng giác không xuất hiện ra đời vì các chúng sanh nói pháp đã chứng và cách điều phục. Vậy nên biết rằng trong các thế gian, già bệnh chết này là không thể yêu, là không trong sạch, là không thể muốn, là không vừa ý. Vì ba việc này Như Lai ứng chánh đẳng giác xuất hiện ra đời vì các chúng sanh nói pháp đã chứng và cách điều phục. Bấy giờ Thế Tôn lặp lại bài tụng rằng:
Bề ngoài trang điểm đều hư hoại,
Trong thân biến đổi cũng vậy thôi.
Chỉ có thắng pháp thường chẳng mất,
Các người có trí hãy xét coi!
Đây già bệnh chết đều đáng chán,
Hình nghi xấu xí thật khó ưa
Tuổi trẻ dung nhan tạm thời đó,
Nào có lâu chi, đều héo khô.
Dẫu cho tuổi thọ trăm năm đủ,
Chẳng khỏi vô thường não bức thân.
Già bệnh chết, khổ thường theo đuổi.
Chẳng lợi gì cho thân chúng sanh.
Bấy giờ Thế Tôn nói kinh này xong, các chúng tỳ kheo, thiên, long, dược xoa, càn thát bà, a tu la đều rất hoan hỷ tín thọ, phụng hành.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
O— HẾT —O
========================
- Lưu hành nội bộ: Chùa Đại Bi, Plano, TX
- Đánh máy, trình bày: Bông Nguyễn
- Post: By Admin