Trái tim Mặt trờiTác giả : Thích Nhất Hạnh |
Mục lục • Lời mở đầu • Chương 1 Nắng trên lá xanh • Chương 2 Ðiệu múa của ong • Chương 3 Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài • Chương 4 Rách tung lưới sinh tử • Chương 5 Con hãy nhìn bàn tay con • Ghi chúLời mở đầu Người tập thiền xưa nay vẫn biết nhìn bằng con mắt của mình và xử dụng ngôn ngữ của thế kỷ mình. Sở dĩ như vậy vì tuệ giác là một dòng sống linh động chứ không phải là một cổ vật được cất giữ ở viện bảo tàng. Bằng sự sống của chính mình, người thiền giả khơi nối được dòng tuệ giác và làm cho nó tuôn chảy về nhũng thế hệ tương lai. Công trình nối đuốc là công trình của tất cả chúng ta, tất cả những ai biết khai phá để mà đi tới. Cái thấy của chúng ta và ngôn ngữ của chúng ta không the tách rời ra khỏi thời đại trong đó chúng ta sống. Ðã từ lâu Ðông Phương theo gót Tây Phương trên con đường văn minh kỹ thuật đến nỗi bỏ lửng công trình khơi mở và tiếp nối những truyền thống đạo học của mình. Trên thế giới, kỹ thuật vẫn còn là sức mạnh của kinh tế và chinh trị, nhưng khoa học ở tuyến đầu khám phá của nó đã bắt đầu hé thấy những gì mà đạo học Ðông Phương đã từng thực nghiệm từ lâu. Nếu qua cuộc khủng hoảng lớn lao nầy mà nhân loại còn sống sót được thì hố chia cách giữa khoa học và đạo học sẽ được lấp bằng và Ðông Tây sẽ cùng đi chung trên một con đường khám phá mói: đó là con đường khám phá chân tâm. Ðã có sẵn hạt giống của nền văn hóa này, chúng ta hãy nhìn xa mà đóng góp ngay từ bây giờ bằng đời sống chính niệm hiện thực của chúng ta cho con đường đi lên đó. Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giả vì kiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách. Nó muốn được là người bạn để nhắc nhở và khích lệ người độc giả trên bước đường thiền quán. Trong xe buýt hoặc dưới métro, bạn có thể mang nó theo như mang theo một con chó con hoặc như một cây gậy trúc, hoặc một cái nón hay một chiếc khăn choàng. Nó có thể cho bạn một niềm vui nhỏ bất cứ lúc nào . Bạn có thể đọc năm bảy dòng rồi gấp nó lại, bỏ nó vào túi, để khi nào có hứng thì đem ra đọc thêm vài dòng khác. Gặp vài đoạn hơi khó bạn cứ lướt qua để đọc đoạn kế kiếp. Chừng nào thật rỗi rảnh, bạn hãy trở lại những đoạn ấy. Bạn sẽ thấy những đoạn ấy không có gì là khó. Chương 5 tức là chương cuối, rất dễ đọc và rất quan trọng, bạn có thể đọc bất cứ lúc nào. Bạn hãy soi sáng những đoạn trong cuốn sách bầng kinh nghiệm sống của bạn. Ðừng bị văn tự khuynh loát ; chế ngự được văn tự mói là bậc trượng phu. Viết ở Rừng Othes, đầu mùa thu năm Tân Dậu. Nguồn: Langmai Chương 1 Nắng trên lá xanh LY NƯỚC TÁO CỦA BÉ THỦY Hôm nay có ba em bé, hai gái và một trai, từ dưới làng lên chơi với Thanh Thủy. Bốn đứa chạy chơi trên khu đồi phía sau nhà khoảng một giờ đồng hồ thì tìm vào để kiếm nước uống. Tôi đi tìm chai nước táo cuối cùng còn lại và đem rót vào cho mỗi đứa một ly đầy. Ly chót là của Thanh Thủy. Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước. Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống. Bốn đứa lại chạy lên đồi chơi. DÒNG SÔNG TÂM TƯỞNG Chúng tôi mới ngồi được chừng bốn mươi phút. Tôi thấy ông bạn đang mỉm cười nhìn ly nước táo. Ly nước táo đã lắng trong rồi. Bạn đã lắng trong chưa? Dù chưa được như ly nước táo, nhưng bạn cũng đã thấy thân tâm bạn lắng trong được một phần nào rồi chứ? Nụ cuời chưa tắt trên môi bạn. Hình như bạn ngờ rằng bạn sẽ không thể nào đạt đến sự lắng trong của ly nước táo dù bạn cố gắng ngôì thêm một vài giờ đồng hồ nưã. NẮNG VÀ LÁ CÂY XANH Người tập thiền thường nghĩ rằng phải làm bặt tăm (im lặng) hết mọi tư tưởng và cảm giác (mà người ta gọi là vọng tâm) để làm điều kiện thuận lợi cho định tuệ xuất hiện (tức là chân tâm) xuất hiện. Nghĩ như vậy cho nên mới tìm áp dụng những thủ thuật như các phép chỉ quán và sổ tức quán để ngăn chận tạp niệm và vọng tưởng. Chỉ quán và số tức quán là những phép tu rất hay nhưng không nên đem dùng với mục đích là đàn áp tạp niệm và vọng tưởng. Như ta đã biết, hễ có đàn áp là có sự phản kháng. Vọng tâm và chân tâm là một, bỏ vọng tâm thì mất chân tâm. Đàn áp vọng tâm cũng là đàn áp chân tâm. Tâm của ta không thể đàn áp. Tâm của ta chính là ta. Ta phải đối xử với ta một cách kính trọng, hòa nhã và tuyệt đối bất bạo động. Ta nào đã biết mặt mũi của tâm ta ra sao mà bảo nó là chân hay vọng mà đàn áp với không đàn áp. Điều duy nhứt mà ta có thể làm là ta đốt lên một mặt trời ý thức. Để soi rõ tâm. Để nhìn mặt tâm. Nắng là lá cây xanh Có mặt trời ý thức thắp lên thì đã có sự thay đổi lớn rồi. Ngồi thiền là để thắp mặt trời cho dễ, để nhìn cho rõ. Ta thấy như khi ta quán niệm ta có đến hai tâm: một dòng sông tư tưởng và cảm giác trôi chảy và một mặt trời quán niệm soi sáng. Tâm nào là của ta, tâm nào chân, tâm nào vọng, tâm nào chính, tâm nào tà? Hãy thong thả thưa bạn. Hãy buông lưỡi kiếm khái niệm xuống, đừng vội chém tâm bạn làm hai. Cả hai đều là tâm. Không bên nào chân, không bên nào vọng. Nếu vọng là vọng hết, nếu chân là chân hết. BÓNG TỐI THÀNH ÁNH SÁNG Bạn hãy quán sát những biến chuyển của tâm dưới ánh sáng quán niệm. Ngay hơi thở của bạn cũng đã biến đổi rồi và cũng trở thành không hai (‘bất nhị’ – tôi không muốn dùng từ ngữ một) đối với tâm năng quán. Các tư tưởng và cảm giác cũng vậy. Tự thân chúng và tác dụng của chúng dưới ánh sáng quán niệm tự nhiên biến đổi hẳn đi, liên đới với tâm năng quán, dù bạn không có chủ ý phê phán hay đàn áp chúng. Có khi nào bạn bực bội và nỗi bực bội có thể kéo dài đến năm bảy phút không? Bạn hãy thử ngôì yên, theo dõi hơi thở bạn, mỉm một nụ cười hàm tiếu và “thắp” ý thức lên trên nỗi bực bội của bạn. Đừng có phê phán và đàn áp nỗi bực bội đó, vì nó là chính bạn. Nỗi bực bội đó có nguyên nhân, nó phát sinh, trưởng thành rồi tiềm phục hoặc tiêu diệt. Bạn hãy khoan đi tìm nguyên nhân nó và đừng chủ ý làm tiêu tán nó: hãy thắp đèn lên trên đó mà thôi. Bạn sẽ nhận thấy nó biến từ từ, liên hệ với tâm năng quán, và hoà hợp với tâm năng quán. Bất cứ một hiện tượng tâm lý nào đặt dưới tâm năng quán đều biến chuyển và mang mầu sắc của tâm năng quán. Cũng như nhà vật lý học nói bất cứ vật thể cực vi nào khi bị quán sát cũng bị chi phối và mang mầu sắc của người quán sát. MỘT BÀI THƠ CHO BẠN CÀI NÚT ÁO Nhưng không phải là khi ngồi xuống ta mới có an lạc. Như tôi đã nói: ta có thể làm hơn ly nước táo ở chổ ta có thể làm cho ta tự lắng trong, không những trong tư thế ngồi mà còng trong các tư thế đi, đứng, nằm, và làm việc nữa. Ai cấm không cho bạn thắp mặt trời quán niệm lên khi bạn đang đi bách bộ, hoặc khi bạn đang pha một bình trà, giặt một cái áo? Ngày tôi mới vào làm thiền sinh ở chùa Từ Hiếu, tôi được dạy thực tập quán niệm trong khi làm cỏ ngoài vườn sân, quét lá quanh bờ hồ và rửa chén bát ở nhà bếp. Tôi quán niệm theo phương pháp của thiền sư Độc Thể trong cuốn sách Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu. Sách này dạy ta phải ý thức về mọi động tác của cơ thể ta: thức dậy thì biết thức dậy, cài nút áo thì biết cài nút áo, rửa tay thì biết rửa tay. Thiền sinh lại còn làm những bài thơ nhỏ để ta thầm đọc khi ta rửa tay hoặc cài nút áo nữa, với mục đích giúp ta sống vững trãi trong chánh niệm. Đây là bài thơ để cho bạn cài áo: Chỉnh y thức đới (giải này buộc, nút này gài Như vậy mặt trời quán niệm không những soi tâm mà còn soi thân nữa. Mọi tư thế và động tác của cơ thể cũng cần được đặt dưới sự soi sáng của ý thức. Hồi bé tôi thường nghe mẹ tôi dạy chị tôi: con gái làm cái gì cũng phải có ý có tứ. Hồi đó tôi mừng, tự nhủ rằng con trai thì không cần phải có ý tứ nhiều như con gái. Ai ngờ khi vào học thiền, tôi bị các thầy bắt “có ý tứ” nhiều hơn chị tôi hồi đó gấp bội. Không phải có ý tứ trong mọi động tác mà còn phải có ý tứ trong mọi “ý” và mọi “tứ” nữa. BA GIỜ ĐỒNG HỒ CHO MỘT ẤM TRÀ Cái bí quyết của thiền là sống ý thức trong từng giây phút của sự sống, giữ cho mặt trời ý thức sáng tỏ, chiếu dọi trên tất cả những gì xảy đến về phương diện tâm lý cũng như về phương diện cơ thể và hoàn cảnh. Trong khi ta uống một bình trà, tâm ta phải có mặt với ta trong sự uống trà. Uống trà là một trong những niềm vui mà ta có hàng ngày; ta phải sống trọn niềm vui ấy. Bạn để ra được bao nhiêu phút để uống trà? Tôi nghĩ tới những tiệm cà phê ở Đông Kinh hoặc Nữu Ước, nơi đó người ta ngồi, gọi một tách trà, uống vội vã rồi trả tiền để còn đi làm “công chuyện”. Vài ba phút là cùng. Trong phòng trà, thường là có âm nhạc. Tai nghe âm nhạc ấy, mắt nhìn những người uống trà khác cũng vội vã giống như mình, trí óc nghĩ tới những chuyện phải làm sau tách trà. Một tách trà như vậy, không xứng đáng là một tách trà. Bạn đã được pha trà hầu hai vị thiền sư đối ẩm chưa? Hoặc bạn đã được dự một trà lễ chưa? Người ta ngồi với nhau từ hai tới ba giờ đồng hồ để uống một ấm trà. Mà không phải là người ta dùng thì giờ đó để trò chuyện đâu. Chỉ để uống trà và ngồi bên nhau mà thôi đấy. Chúng ta có thể đồng ý hay không đồng ý rằng những người này chỉ biết ham chơi, không biết lo đến nền độc lập chính trị và kinh tế quốc gia. Nhưng chúng ta phải công nhận rằng họ là những người biết uống trà bên một người bạn thân. THÌ GIỜ ĐỂ TẮM MỘT ĐỨC PHẬT SƠ SINH Tôi thấy cái việc rửa bát chỉ có thể là khó chịu khi ta không rửa bát hoặc chưa rửa bát thôi, chứ khi đã đứng lên và xăn hai ống tay áo rồi thì việc rửa bát trở nên dễ chịu. Tôi ưa rửa thong thả từng cái bát, lấy ý thức quán chiếu từng cái bát và từng cử động của tay. Tôi biết rằng nếu tôi hối hả rửa cho xong chồng chén bát để mà đi uống trà thì như vậy thời gian rửa bát là thời gian khó chịu, không đáng cho ta sống. Và như thế thật đáng tiếc. Đời sống mầu nhiệm trong từng giây phút, biết vậy nên tôi thắp mặt trời ý thức của tôi lên chạn chén bát. Sự kiện tôi đang đứng đây và rửa những chén bát này là một sự kiện mầu nhiệm. Câu này tôi đã viết một lần trong cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức. Mỗi cái bát tôi rửa cũng như mỗi câu thơ tôi làm, cũng như mỗi tiếng chuông tôi thỉnh. Một hôm trong khi rửa bát, tôi có cảm tưởng rằng cử chỉ của tôi khi rửa cái bát cũng trịnh trọng và thiêng liêng như thể cử chỉ tôi tắm cho một đức Phật sơ sinh. Đức Phật sơ sinh nghe tôi nói như thế chắc là mừng cho tôi và không trách tôi đã dám so sánh ngài với một cái bát. Mỗi tư tưởng mỗi động tác đặc dưới ánh sáng quán niệm đều trở thành một nghi lễ. Mặt trời thiền quán thắp lên thì không còn ranh giới giữa sự thiêng liêng và trần tục nữa. Tôi rửa bát có chậm hơn người khác thật đấy, nhưng tôi được sống trọn vẹn trong thời gian rửa bát, và tôi rất bằng lòng về điểm đó. Rửa bát vừa là phương tiện vừa là cứu cánh, nghĩa là rửa bát để vừa có bát sạch vừa sống trọn vẹn trong thời gian rửa bát. NUÔI DƯỠNG CHÁNH NIỆM TRONG NHỮNG LÚC LÀM VIỆC Công việc hàng ngày gọi là để “sinh sống’ của ta, ta cũng có thể làm như ta rửa bát. Tại Phương Vân Am tôi có nghề đóng sách. Tôi dùng một bàn chải đánh răng, một cái đũa, một cái bánh xe lăn và một viên gạch réfractaire khá nặng chừng hai ký, và tôi có thể đóng và vào bìa mõi ngày hàng trăm cuốn sách. Nhưng trước khi đóng sách, tôi còn phải “lượm sách” nghĩa là phải thâu những tờ sách rồi gom lại theo thứ tự các trang để làm thành một tập. Những trang này tôi sắp trên một cái bàn thật dài, và hễ đi một vòng quanh bàn thì tôi lượm đủ số trang cho một cuốn sách. Tôi biết là tôi đang đi quanh, và không có gì đợi tôi phía trước, cho nên tôi đi chậm thôi, và lượm từng tờ sách thong thả trong quán niệm. Tôi vừa làm vừa thở những hơi thở nhẹ nhàng, hơi dài và có ý thức. Tôi có an lạc trong khi lượm sách, đóng sách và vào bìa sách. Nếu thi đóng sách với những người thợ khác hoặc với máy đóng sách thì tôi thua, bởi vì tôi đóng được ít sách hơn. Nhưng có một điều tôi biết chắc là tôi không chán ghét chuyện đóng sách. Mình tiêu xài nhiều thì mình phải làm việc cho nhiều và cho nhanh. Nếu mình sống đơn giản thì mình có thể làm ít và làm chậm trong quán niệm. Tôi biết có rất nhiều người trẻ tuổi ưa làm việc ít thôi, mỗi ngày chừng bốn giờ, với số lương nhỏ có thể sống đơn giản nhưng hạnh phúc. Biết đâu đây chẳng là con đường khai thông cho tình trạnh bế tắc của xã hội ngày nay? Bỏ bớt sự sản xuất những hóa phẩm không thiết yếu, san sẻ việc làm cho những người chưa có việc làm, sống đơn giản nhưng có hạnh phúc. Đã có những cá nhân và những cộng đồng chứng minh được khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc rồi, điều đó há không phải là một dấu hiệu đáng mừng hay sao? NỤ CƯỜI ĐÁNG GIÁ NGÀN VÀNG Theo hơi thở, bạn nuôi dưỡng chánh niệm được lâu lắm. Bạn thành công rồi phải không? Vậy thì bạn hãy mỉm một nụ cười. Nụ cười hàm tiếu. Để chứng tỏ bạn thành công. Và giữ mãi nụ cười ấy trên môi đi, như một đức Phật vậy. Nhìn thậy nụ cười, tôi biết ngay là bạn đang an trú trong chánh niệm. THỞ CÙNG MỘT NHỊP Có người tâm trí loạn động hơi nhiều muốn duy trì chánh niệm đã dùng phép đếm hơi thở thay vì phép theo dõi hơi thở. Trong thời gian thở ra rồi thở vào, người ấy đếm “một”. Duy trì ý niệm “một” đừng để rơi mất. Tiếp đến, đếm “hai” trong hơi thở ra và hơi thở vào thứ hai. Đếm đến mười thì trở lại đếm một. Nếu từ một đến mười mà mất chánh niệm thì bắt đầu đếm “một” trở lại. Khi tâm an định rồi thì bỏ đếm để mà theo dõi hơi thở. BÀI THƠ VÀ CÂY TÍA TÔ Công việc ban ngày của bạn là công việc gì, tôi chưa biết, nhưng tôi biết rằng có những công việc có thể đi đôi với quán niệm dễ dàng hơn những việc khác. Viết văn là một trong những việc khó đi đôi với quán niệm, dù tôi đã đạt đến chỗ viết xong câu nào là tôi “biết” tôi đã viết xong câu đó. Còn trong khi viết câu đó thì tôi vẫn còn hay quên. Cũng bởi vậy cho nên năm sáu năm nay tôi ít viết trở lại và ưa làm việc tay chân hơn. Có bạn bảo tôi: “Trồng cà chua và xà lách thì ai trồng chả được, nhưng viết sách, viết truyện và làm thơ thì không ai cũng làm được như thầy. Đừng phí thì giờ vô ích.” Tôi có phí thì giờ đâu. Tôi đã nói là tôi sống trong khi rửa bát, xới đất và phát cỏ rồi mà… Trồng một cây tía tô, tôi thấy cũng đẹp như làm một bài thơ và cũng vĩnh cữu như làm một bài thơ. Tôi nói thật đấy. Tôi không thấy bài thơ hơn cây tía tô ở chổ nào. Cây tía tô cũng cho tôi nhiều sung sướng như một bài thơ. Đối với tôi, cây tía tô hoặc cây xà lách cũng có tác dụng vĩnh cữu trong không gian và trong thời gian ngang với một bài thơ. Tôi thấy năm 1964 khi lập nên Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn tôi đã làm một lầm lỗi lớn. Các sinh viên (trong đó có cả tăng ni trẻ tuổi) đến đó chỉ học bằng sách vở, chữ nghĩa và khái niệm. Rốt cuộc họ chỉ có một mớ kiến thức và một mớ chứng chỉ hoặc bằng cấp. Ngày xưa khi được chấp nhận vào thiền viện, người trẻ tuổi lập tức được đưa ra vườn tập phát cỏ, gánh nước, trồng rau theo chánh niệm. Cuốn sách đầu tiên người ta giao cho là tập thơ “cài nút áo” của thiền sư Độc Thể. Để mà tập quán niệm khi rửa tay, khi đi ngang qua dòng suối, khi lọc nước uống. Sau này, thiền sinh có học kinh luận và có tham dự những buổi đại tham và tiểu tham, nhưng mà những thứ ấy luôn luôn được đặt trong khuôn khổ của sự thực hành. Bây giờ nếu cần lập lại một viện Cao Đẳng Phật Học, tôi sẽ mô phỏng theo cách tổ chức của thiền viện ngày xưa. Nó phải là một thứ ashram, như là Shanti Niketan. Hoặc như Phương Bối Am hay Communauté de l’ Arche. Tất cả sinh viên đều phải nội trú, đều phải vận thủy bang sài (gánh nước, chở củi), đều sống đời sống hàng ngày dưới mặt trời quán niệm. Tôi chắc những truyền thống tôn giáo lớn đều áp dụng phép tổ chức tương tợ những trung tâm tu học. TẠO LẬP MỘT QUÊ HƯƠNG Mỗi người trong chúng ta nên “thuộc về” một trung tâm như thế. Một khu tĩnh cư, một ngôi chùa, một nhà thờ, hoặc một tu viện. Khu tĩnh cư đó, ta xem như là “chỗ xuất phát” của ta. Một ‘Alma Master’ của đời sống tâm linh. Ở đó, mỗi nét kiến trúc và mỗi cây cảnh hay mỗi tiếng chuông đều có hiệu lực thức tỉnh và nuôi dưỡng chính niệm nơi ta. Ở đây ta có quyền lâu lâu trở về, sống dăm ba bữa nửa tháng trong khung cảnh thanh tịnh để làm mới lại ta, để tái tạo sinh khí, để faire le plein. Và những lúc không trở về được, ta chỉ cần mỉm cười nghĩ tới nó là ta thấy mát mẻ an lạc. Một nơi như thế cần được chủ trì bởi những người có nhân cách mát mẻ và an lạc. Nghĩa là những người sống thường trực trong chánh niệm. Những người này lúc nào cũng có mặt đó để săn sóc ta, an ủi ta, chữa lành những thương tích của ta. Cũng như con cháu mỗi năm vào ngày kỵ giỗ của tổ tiên tìm về nhà người tộc trưởng, mỗi người trong chúng ta cũng nên có một quê hương của đời sống tinh thần mà tìm về. HÁT CA TRONG CHÁNH NIỆM Phần nhiều trong chúng ta có một đời sống quá bận rộn. Đứng về phương diện công việc làm ăn, có thể là công việc ngày nay ít nặng nhọc bằng ngày xưa, nhưng tại sao chúng ta lại có ít thì giờ cho chúng ta như thế? Có người nói rằng họ không có thì giờ “dù là để ăn và để thở”. Thật đấy. Làm thế nào bây giờ? Còn cách nào hơn là trực tiếp giật lại thì giờ của chính chúng ta? Thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm lên và bắt đầu học lại cách uống trà, cách ngồi ăn cơm, cách rửa bát, cách đi bộ, cách ngồi, cách lái xe hơi và cách làm việc hàng ngày. Đừng để hoàn cảnh kéo ta đi theo như một dòng nước lũ kéo theo tất cả những gì nằm trên lối đi qua của nó. TỪ MÊ SANG TỈNH Một ông giáo sư chính trị học hỏi tôi trong khi ngồi thiền thì tôi “suy nghĩ gì”. Tôi trả lời là trong khi ngồi thiền tôi không “suy nghĩ” mà chỉ chú tâm nhìn cho rõ mọi sự việc đang xảy ra. Oâng có vẻ không tin, nhưng sự là thế. Trong khi ngồi thiền, tôi ít vận dụng trí não để lý luận và tìm cách tháo gỡ những câu hỏi hắc búa như khi người ta tìm giải một phương trình toán học hay là một câu đố mẹo. Cả khi tôi tham thán một thoại đầu cũng vậy, tôi cũng chỉ để thoại đầu nằm đó để quan sát nó mà thôi, chứ tôi không tìm cách giải thích nó, cắt nghĩa nó, bởi vì tôi biết thoại đầu không phải là một câu đó mẹo. Quan sát theo nghĩa chính niệm không có nghĩa là phân tích. Nó chỉ có nghĩa là nhận diện thường trực mà thôi. Suy nghĩ nhiều thì mới lao tâm, chứ chánh niệm hoặc nhận diện thì không. Nghe nói tới ngồi thiền, người ta tưởng là phải vận dụng ” chất xám” dữ lắm; thực ra thì không phải. Thiền gia không phải là tư tưởng gia. Thiền gia không “làm việc tinh thần”. Trái lại, thiền có tác dụng dưỡng thần. NIỆM, ĐỊNH VÀ HUỆ Nguyên chữ niệm(sati là tiếng Pali, smrti là tiếng Phạn) có nghĩa là có ý thức. Ta có thể dịch là nhớ hay biết, nhưng những từ này phải được dùng trong nghĩa đang nhớ rằng, đang biết rằng. Ta đã từng nói tới niệm như là một sự nhận diện, một sự chú ý đơn thuần (bare attention). Nhưng niệm không phải chỉ có thế. Trong niệm còn có yếu tố định (sự tập trung của tâm ý) và tuệ ( sự thấy rõ của tâm ý) nữa. Định và tuệ làm nên cường độ của niệm, và cũng là kết quả tất yếu của niệm. Mỗi khi ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm, tự nhiên ta thấy có các hiện tượng tập trung và thấy rõ. Các danh từ định và tuệ là những danh từ được dùng về phương diện quả. Về phương diện nhân, người ta hay dùng những danh từ chỉ và quán. Chỉ là sự làm cho dừng lại, là cho tập trung lại, và quán là nhìn để thấy rõ. Dừng lại thì tự nhiên thấy rõ. Dừng cái gì lại? Dừng sự quên lãng, sự tán loạn và tình trạng mê muội của tâm ý. Tình trạng này, danh từ duy thức học là thất niệm tức là “mất chánh niệm”, tức là sự vắng mặt của ý thức. Ta thấy rõ: dừng lại ở đây không phải là một sự đàn áp mà là một sự chuyển quên thành nhớ, chuyển thất niệm thành niệm. BUNG MỘT NỒI NGÔ Thiền tập không phải là những nổ lực phân tích và suy diễn. Phương pháp Niệm Định Tuệ hoặc phương pháp Chỉ Quán không phải là những phương pháp phân tich và suy diễn. Lưỡi gươm phân tích và suy diễn ở đây không có chỗ sử dụng. Khi ta bung một nồi ngô, ta tập trung lửa dưới đáy nồi, một vài giờ đồng hồ sau thì các hạt ngô bung ra. Khi mặt trời chiếu dọi xuống tuyết liên tiếp trong nhiều giờ đồng hồ thì tuyết từ từ tan rã. Khi một con gà mái ấp ủ lâu ngày những cái trứng của nó, thì những con gà con thành hình và mổ vỡ vỏ trứng chui ra. Đó là những hình ảnh có thể đem ra ví dụ cho tác dụng của thiền quán. KHÁN MỘT THOẠI ĐẦU Ai nói rằng thực tại không thể miêu tả bằng khái niệm? Chính là cái thấy (tuệ) của ta khi ta ngưng tụ tâm thần để quan sát. Lưỡi gươm khái niệm nhiều khi chỉ có thể băm thực tại thành những mảnh nhỏ rời rạc không sinh khí. Các nhà khoa học nhiều khi đã đồng ý về diểm này. Nhiều pháp minh khoa học lớn đã được thực hiện như một trực giác: những lập luận để chứng minh các phát minh kia không phải là những dụng cụ để khám phá mà chỉ là những phương tiện để bênh vực. Những phát minh này đến với khoa học gia vào những lúc bất ngờ nhất, nghĩa là vào những lúc mà họ không suy nghĩ, lý luận và phân tích. Những cái thấy này là do sức tập trung (định) của tâm ý khoa học gia trong nhiều tháng năm liên tiếp. Nếu không có sự thiết tha và chú tâm thầm lặng và thường xuyên tới nghi án, kể cả những lúc đi đứng, nằm, ngồi, ăn, ngủ, v..v… thì cái thấy kia không bao giờ tới được. Các thiền giả ôm ấp một thoại đầu cũng làm việc theo phương pháp ấy. Danh từ thiền học là khán thoại đầu. Khán có nghĩa là nhìn. CHÁNH NIỆM VỪA LÀ NHÂN VỪA LÀ QỦA Như ta đã thấy, chánh niệm vừa là nhân vừa là qủa, vừa là định vừa là tuệ, vừa là chỉ vừa là quán. Chánh niệm vừa thắp lên, tâm đã được định và ta thấy được tâm ta rõ hơn. Nhân và quả đồng thời, nhân và quả không lìa nhau. Cũng như máy phát điện quay thì dòng điện hiện hữu và bóng đèn bật sáng. Tuy vậy duy trì liên tục chính niệm còn có công dụng tích lũy định tuệ, cũng như khi máy điện chạy ta có thể tích lũy điện lực vào một bình ắc quy. Đó là công phu. Trong giấc ngủ, chánh niệm vẫn còn tác dụng, và công án tiếp tục được “khán” một cách âm thầm. Có thiền giả thấy được mình đang duy trì chánh niệm ngay cả trong giấc mơ. Vào những thời gian thiền tập miên mật nhất thỉnh thoảng tôi cũng thấy mình có chánh niệm trong giấc mơ. SUY TƯ VỀ CÁI KHÔNG THỂ SUY TƯ Phương pháp của khoa học từ trước đến nay là giới hạn đối tượng khảo cứu và một phạm vi nhỏ để tiện khảo cứu. Đối tượng càng nhỏ thì sự chú ý càng lớn. Nhưng đến khi đi vào địa hạt những cực vi siêu nguyên tử (subatomic particles) thì nhà khoa học khám phá ra rằng mỗi chất điểm (particle) được tạo thành bởi tất cả các chất điểm khác và tâm ý của nhà khoa học trong khi quán sát không còn là một thực tại biệt lập với các vật quan sát. Trong giới khoa học vật lý cực vi ngày nay có ý niệm bootstrap. Ý niệm này nhận rằng vạn vật nương vào nhau mà sinh khởi và hiện hữu, những “vật” cực vi mà từ lâu ta lầm tưởng là thực tế cơ bản của vật chất thực ra cũng nương nhau mà có và chúng cũng không có thực thể riêng biệt. “Mỗi chất điểm là do tất cả những chất điểm khác tạo thành” (Chaque particule est faite de toutes les autres). Ý niệm này không khác mấy với ý niệm “một là tất cả: của kinh Hoa Nghiêm.” HẠT MUỐI ĐI VÀO LÒNG BIỂN MẶN Từ lâu, khoa học thường quen vạch một đường ranh giới giữa người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu: nhà khoa học và con vi trùng dưới kính hiển vi là hai thực tại riêng biệt, độc lập. Thiền học kỵ nhất điều đó. Ta hãy nhớ lại sự liên hệ giữa ánh sáng mặt trời và mầu xanh trên lá cây. Khi ta rọi chánh niệm và các đối tượng tâm ý khác, các đối tượng này biến thể và đồng nhất với chánh niệm. Tôi đưa ra một hình ảnh để bạn thấy điều này. Khi bạn ý thức rằng bạn đang vui, bạn thầm nghĩ: “Tôi có ý thức rằng tôi đang vui”. Nếu bạn vượt lên cao hơn một từng nữa và nói: “Tôi đang ý thức rằng tôi có ý thức về niềm vui của tôi” thì bạn thấy gì? Bạn thấy có ba từng: niềm vui – ý thức về niềm vui – ý thức về sự có ý thức – Đó là ta vung thanh kiếm khái niệm để biểu diễn vài đường phân tích. Sự thực trong bạn, cả ba đều nằm trong một. Chương 2 Ðiệu múa của ong ÐỪNG GIAO PHÓ THÂN MẠNG CHO KẺ KHÁC Có một buổi chiều lộng gió đi núi về, tôi thấy các cửa sổ và cửa ra vào của am Phương Vân bị gió thổi bật tung. Hồi trưa ra đi, tôi chỉ khép hờ các cửa. Gió lộng vào nhà, lạnh lẽo. Giấy tờ trên bàn viết của tôi bay tứ tán. Tôi lập tức đi đóng hết các cửa, đốt cây đèn lớn giữa nhà rồi đi nhặt giấy tờ và sắp lại trên bàn. Xong xuôi, tôi đi đốt lửa ở lò sưởi. Một lúc sau, củi nổ lép bép và căn nhà ấm áp trở lại. NGƯỜI BỊ CẢM CHƯA ÐƯỢC TẮM NƯỚC LẠNH Nếu là một nhà phê bình văn nghệ, bạn sẽ đọc một cuốn truyện hoặc xem một cuốn phim bằng con mắt biết nhận xét của bạn. Ít nhiều trong khi đọc hoặc trong khi xem bạn cũng ý thức được trách vụ của nhà phê bình nơi bạn cho nên bạn không là “nạn nhân” của cốt truyện đó hoặc chuyện phim đó. Bạn có khả năng tự chủ. Người sống trong chánh niệm là một người có tự chủ: tuy cửa sổ giác quan của họ mở ra trên thế giới, nhưng căn nhà tâm ý của họ không hề bị cướp đoạt. Nói như vậy để chúng ta nhớ rằng thế giới hình sắc và âm thanh “bên ngoài” không phải là kẻ thù độc hại của chúng ta. Nếu chúng ta giữ gìn những cửa sổ giác quan của chúng ta là tại gì chúng ta chưa đủ sức mạnh để đương đầu với thế giới ấy, cũng như ta bị cảm cúm thì ta chưa thể đi tắm nước lạnh. Tôi nhớ ngày xưa trong một bửa cơm chay tại nhà Lá Bối, tôi được mời phát biểu ý kiến về văn nghệ. Tôi nói theo tôi văn nghệ phải có tính cách khai thị và tri liệu. Khai HÃY CHĂM BÓN CÂY LỰU TRƯỚC SÂN NHÀ Khi ta mới tới ngồi bên một dòng suối, ta thấy sung sướng được nhìn dòng nước chảy, được nghe tiếng suối reo và được ngắm những tảng đá bui cây hạt sỏi bên suối. Ta với suối là một, và ta có được sự êm mát, thanh tịnh và trong sáng của suối. Nhưng có thể ta sẽ chán dòng suối sau đó vì tâm ta không an. Tâm ta nghĩ dến những việc khác và ta dồng nhất ta với những việc khác ấy, do đó ta không còn là dòng suối nửa. Người thiền giả thân ở rừng mà tâm ở chợ thì rừng có cũng như không. Khi ta sống bên một đứa trẻ thơ hoặc bên một người bạn hiền, ta thấy được sự tươi mát của đứa bé hoặc sự ấm áp của người bạn. Ta dược hưởng sự tươi mát đó hoặc sự ấm áp đó. Ta là dứa bé, ta là người bạn. Nhưng nếu tâm ta không an, thì đứa bé có đó cũng như không, người bạn có đó cũng như không. Ta phải có ý thức về sự quý giá của đứa bé hay của người bạn và như thế ta mới thưởng thức được sự có mặt của họ, và mới bồi đắp và nuôi dưỡng được họ để họ mãi mãi còn là niềm hạnh phúc của ta. Nếu ta vô tâm và dại dột, ta có thể sinh ra bất mãn, trách cứ, cãi cọ với họ, hoặc đòi hỏi quá đáng nơi họ, để cuối cùng ta mất họ. Mà một khi mất họ rồi thì ta mới thấy họ quý giá, ta mới tiếc thương họ. Khi còn họ thì ta không trân quý, khi mất họ rồi thì ta có tiếc thương cũng vô ích. Quanh ta đầy dẫy những mầu nhiệm: một cốc nước, một tia nắng, một tờ lá, một con sâu, một bông hoa, một tiếng cười, một trận mưa. Nếu ta có chánh niệm, ta sẽ dễ dàng thấy được sự mầu nhiệm của vạn vật. Trong ta cũng đầy dẫy những mầu nhiệm: mắt ta thấy được bao nhiêu hình dáng và mầu sắc, tai ta nghe được bao nhiêu âm thanh, óc ta suy tưởng được từ một hạt bụi cho đến một thiên hà, tim ta thổn thức theo được nhịp tim của bao nhiêu loài sinh vật khác… Những lúc mệt mỏi và chán nản vì cuộc sống vật lộn và ồn ào, ta thường không thấy được sự mầu nhiệm trong ta và trong vạn vật. ÐỪNG TRỞ THÀNH MỘT THUỘC ÐỊA Thợ thuyền Pháp, và cả đảng Xã Hội đang cầm quyền nũa, hiện đang tranh đấu để rút thời giờ làm việc hàng tuần từ bốn mươi giờ xuống ba nươi lăm giờ. Cuộc tranh đấu thật cam go. Nhưng năm giờ dồng hồ đạt được dó, chúng ta sẽ xử dụng như thế nào ? Nếu chúng ta cũng xử dụng nó như buổi chiều thứ bảy, nghĩa là để ngồi hết buổi trước máy truyền hình hoặc trong một quán rượu thì oan uổng biết mấy. Cố nhiên là ta cần thời giờ để nghỉ ngơi, để sống. Nhưng sống như thế nào ? Ta có thói quen: hễ rảnh tay là ta mở máy truyền hình mà theo dõi một truyện phim trinh thám hay gì cũng dược, để khỏi phải “ở không “, nghĩa là để khỏi phải đối diện với chính ta. Nhiều khi máy truyền hình làm ta mệt thêm, cáu thêm nhức đầu thêm.. Thì giờ tự do mà ta tranh đấu được có thể bị các công ty phim ảnh, quảng cáo và tuyên truyền chính trị cướp đoạt, rồi cuối cùng ta sẽ bị biến thành những thuộc địa của kẻ khác. Ta phải tìm cách xử dụng thì giờ nghỉ ngơi quý báu của ta cho hợp lý, để ta thực sự được nghỉ ngơi và có được sự an lạc. Bạn chọn những chương trình hay trên các đài truyền hình và chỉ mở máy để nghe những chương trình ấy mà thôi. Và bạn chọn những khung cảnh đẹp đẽ và êm mát, những buổi sum họp thân mật với những người bạn yêu mến, những cuốn sách và những và những dĩa hát bạn ưa thích v.v… Tất cả những gì bạn đã chọn, bạn hãy sống thật thoải mái và có ý thức với chúng. Bạn nhớ rằng: mình chọn những cái gì thì mình sẽ là cái ấy. Có khi nào ở trước bãi biển lúc mặt trời mọc hoặc trên núi cao lúc giữa trưa, bạn vươn vai thở một hơi dài hít vào dầy phổi không khí trong sạch của bầu trời lồng lộng nơi ấy ? Có phải là bạn thấy mình là một với trời biển và núi sông không ? Nếu bạn nghĩ rằng bạn ở xa biển, xa núi quá thì bạn hãy ngồi lại trong tư thế hoa sen, và là như người hành giả kia, thở một hơi thở vừa nhẹ vừa dài, và đưa biển, núi và thái hư về trong bạn. Hoặc bạn ra bờ sông hoặc ra công viên gần nơi bạn cư trú. ÐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC KHÔNG THỂ TÁCH RỜI KHỎI CHỦ THỂ NHẬN THỨC Ý thức là ý thức về một cái gì, vì vậy đối tượng quán chiếu của tâm cũng là tâm. Khi quán chiếu núi thì tâm là núi, khi quán chiếu biển thì tâm là biển. Duy thức học nhấn mạnh dến diểm dó: nhận thức bao hàm cả chủ thể nhận thức lẫn dối tượng nhận thức. Khi ta quán chiếu thân thể ta thì ta giới hạn nhận thức của ta trong phạm vi thân thể ta, và ta là thân thể ta, dù rằng thân thể ta không phải là một thực thể riêng biệt, độc lập, có thể tồn tại độc lập với vũ trụ. Cũng như thế, khi quán niệm về không gian vô biên, ta đồng nhất với không gian vô biên, và ta đi vào một trạng thái thiền dịnh gọi là không vô biên xứ định. Dó là một trong bốn cảnh giới thiền dịnh gọi là tứ không định (ãkas’ãnantyãyatana ). Nếu ta quán niệm về tâm thức bao hàm cả không thời gian và an trú trong trạng thái quán niệm ấy, thì ta di vào thức vô biên xứ dịnh (vijnànanãntyãyatana ). Nếu ta quán niệm về đặc tính vô tướng của tất cả các pháp trong vũ trụ thì ta di vào vô sở hữu xứ định (ãkincanyàyatana ). Khi ta quán niệm về nhận thức trong đó không còn sự phân biệt chủ thể và đối tượng thì ta đi vào phi tưởng phi phi tưởng dịnh (naivasan~jnãnãsanjnãyatana ). Bốn trạng thái thiền định này không phải là khó thực hiện như nhiều người thường nghĩ, miển là ta biết thường trực quan sát đường đi nước bước của tâm tạ Bạn có muốn thực tập thì cứ thử, nhưng nếu không thực tập cũng không sao. Ðiều cần nhắc ở đây là đừng gạt tất cả những gì mà bạn cho là đối tượng của nhận thức ra khỏi nhận thức. Thân thể của bạn, cũng như đỉnh núi và dòng sông kia một khi dược bạn nhận thức, đều là tâm của bạn. BUÔNG BỎ Ý NIỆM TRONG VÀ NGOÀI Có lẽ bạn đã để ý rằng mỗi khi dùng mệnh đề “thế giới bên ngoài ” tôi đều đặt no’ trong vòng kép. Tôi làm như thế là vì tôi không thực sự thấy rằng thế giới ấy là thế giới “bên ngoài” . Bạn thử quán sát xem: bên ngoài là bên ngoài của thân hay của tâm ? Thân thể ta , máu thịt và gân cốt ta đều thuộc về thế giới “bên ngoài ” ấy. Cho đến hệ thần kinh và óc tủy của chúng ta cũng đều thuộc về cùng một thế giới. Cái dung tích mấy trăm phân khối chứa não bộ của ta, nó có phải là cái ” thế giới bên trong “để đối với cái “thế giới bên ngoài ” hay không ? Bạn nói là không, bởi vì nó là một phần của không gian, tức là một phần của thế giới bên ngoài. Vậy thì thế giới bên trong là tâm, bạn nói. Nhưng tâm ở đâu ? Bạn có thể xác dịnh được vị trí của tâm không ? Bạn hãy dùng tâm mà quan sát tâm như quan sát mọi hiện tượng khác mà ta gọi là vật lý. Tâm liên hệ tới thần kinh và não bộ : tâm là ký ức và cảm giác, là tư tưởng, là nhận thức, những hiện tượng ấy có liên hệ tới gốc rễ sinh lý của chúng, có sinh diệt, có cường độ. Bạn nói ta có thể xác dịnh vị trí không gian và thời gian của chúng. Về không gian thì căn cứ của chúng là thần kinh và não bộ. Về thời gian thì chúng có thể phát hiện hôm qua, ngày nay hoặc ngày mai. Như vậy dưới nhận thức của tâm, tâm trở thành một phần của cái thế giới mà ta gọi là thế giới bên ngoài. Cứ theo đà ấy mà suy xét thì tất cả đều thuộc về thế giới bên ngoài ấy. Nhưng bên ngoài là bên ngoài của cái gì ? Làm gì có bên ngoài nếu không có bên trong? Những quan sát ấy không phải để đưa tới kết luận rằng thế giới bên ngoài nằm gọn trong tâm và tâm bao hàm tất cả pháp giới. Bởi vì một kết luận như thế vẫn còn được đặt trên sự phân biệt trong và ngoài. “Tất cả dều trong tâm, ngoài tâm không còn gì nữa”. Câu nói này cũng vô lý như câu nói: “Tâm ta nhận thức dược thế giới bên ngoài”. THỰC TẠI KHÔNG CHỊU ÐỰNG ÐƯỢC KHUÔN KHỔ Vậy sự buông bỏ ý niệm về khuôn khổ rất cần thiết cho người thực tập thiền quán. Khi ta quán sát thân thể, cảm giác, tư tưởng và nhận thức của ta, ta cũng đặt chúng vào khuôn khổ không gian và thời gian như khi ta quán sát các hiện tượng vật lý, và như thế là ta đặt chúng vào cùng trong một thế giới, sắp đối tượng tâm lý bên cạnh các đối tượng sinh lý và vật lý. Bạn đặt câu hỏi: tâm như là đối tượng quán sát có còn là tâm nữa hay chăng, hay chỉ là bóng dáng rơi rớt của tâm? Câu hỏi đó thông minh. Bạn có thể hỏi tiếp: các đối tượng quán sát của tâm mà ta xếp vào hai phạm trù sinh lý và vật lý có còn nằm trong thể tính và tự thân của chúng hay không , hay chỉ còn là bóng dáng rơi rớt của một thực tại bị đối tượng hoá ? Tâm của ta đã tạo dựng ra những khuôn khổ như không gian và thời gian, trên và dưới, trong và ngoài, mình và người, nhân và quả, sinh và diệt, một và nhiều v.v… và đặt mọi hiện tượng sinh lý, vật lý và tâm lý vào trong những khuôn khổ đó để quan sát, mong tìm ra dược chân tướng của chúng. Thái độ đó là thái dộ của người đem nước lã rót dầy vào các ve chai có hình thù lớn nhỏ tròn dài khác nhau để tìm hiểu tình trạng và dung tích của nước. Thực tại trong tự thân nó không bao giờ chịu dựng được bất cứ khuôn khổ nào, và vì vậy người muốn thể nhập nó phải quăng bỏ những khuôn khổ ý niệm sử dụng trong đời sống thực dụng hằng ngày.ỵ Các nhà khoa học vật lý hiện giờ cũng thấy được điều đó. Thuyết Tương Ðối chủ trương rằng nếu không buông bỏ ý niệm thời gian và không gian độc lập và tuyệt đối thì không thể nào đi xa trên con dường hiểu biết vũ trụ . Thuyết Lượng Tử nói rằng đi vào thế giới vật thể cực vi thì phải bỏ lại các ý niệm sự vật, có không, nhân quả, trước sau v.v…thường được áp dụng trong thế giới sinh hoạt thực dụng hằng ngàỵ TUỆ LÀ CÔNG TRÌNH CỦA QUÁN CHIẾU KHÔNG PHẢI CỦA SUY TƯ Các khoa học gia thuyết Lượng Tử bây giờ cũng biết rằng tâm quán sát của ta có liên hệ mật thiết tới vật ta quán sát, và đã bắt dầu nói nhiều tới tâm. Năm 1979, đài France Culture có tổ chức một tuần lể tọa đàm tại Cordoue, Y Pha Nho, về vị trí của tâm trong khoa học, và nhiều học giả nổi tiếng các nước đã được mời tới tham dự. Ðề tài tọa đàm là Khoa Học và Tâm Thức (Science et Conscienne). Nhiều khoa học gia tham dự đã tỏ ý tin tưởng rằng tâm và thế giới cùng có chung một thể tính. Các khoa học gia thấy được tính cách then chốt của tâm, nhưng đa số cũng còn nghiên cứu tâm như những đối tượng khác trong phòng thí nghiệm của họ : tâm ở đây không còn là tâm mà là những hình bóng rơi rụng của tâm gắn trong những khuôn khổ ý niệm. Chắc bạn còn nói đến câu này trong Kinh Niệm Xứ : quán niệm thân thể trong thân thể, quán niệm cảm giác trong cảm giác, quán niệm tâm thức nơi tâm thức, quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Câu này có nghĩa là: sống chánh niệm với thân thể chứ không phải là khảo cứu về thân thể như một đối tượng, sống chánh niệm với cảm giác, tâm thức và đối tượng tâm thức chứ không phải là khảo cứu về cảm giác, tâm thức và đối tượng tâm thức như những đối tượng. Khi ta quán niệm về thân thể ta, ta sống với thân thể ta như một thực tại với tất cả sự chăm chú và tỉnh táo của ta, ta là một với thân thể ta, cũng như khi ánh sáng chiếu vào một nụ hoa nó thâm nhập vào nụ hoa, làm một với nụ hoa và làm cho nụ hoa hé nở. Công phu quán niệm làm phát hiện không phải là một ý niệm về thực tại mà là một cái thấy về thực tại. Cái thấy đó là tuệ, do niệm và định đưa đẩy tới. Suy tư là xây dựng nên những kiến trúc tư tưởng bằng những viên gạch ý niệm rút từ kho tàng ký ức. Tự thân của suy tư không có giá trị sáng tạo. Chỉ khi nào Tuệ được phát hiện thì suy tư mới có thực chất mới. Tuệ không phải là do suy tư đưa tới: nó là công trình của sự quán chiếu. Tuệ có thể nhờ tư tưởng chuyên chở, nhưng tư tưởng nhiều khi khó chuyên chở được Tuệ, bởi vì tư tưởng thường hay bị các phạm trù ý niệm của chúng điều khiển và gò bó. Tư tưởng và ngôn ngữ nhiều khi không diễn tả được Tuệ hay bằng một cái nhìn hay một tiếng cười, chính là gì thế. ÐIỆU MÚA CỦA LOÀI ONG Bạn đã từng dọc sách hoặc xem phim về sinh hoạt loài ong chưa. Khi con ong thợ phát kiến dược một địa điểm nhiều hoa, nó bay về tổ báo cho đồng loại biết phương hướng và vị trí của địa điểm này bằng cách đi vài đường múa. Có nhiều điểm xa cách tổ ong đến hàng cây số. Học giả K. Von Frisch từng nghiên cứu về ngôn ngữ “múa” ấy của loài ong. Loài người cũng biết múa và có nhiều nghệ sĩ từng diễn tả nội tâm bằng những điệu múa.. Có người diễn tả nội tâm bằng âm nhạc hoặc hội họa. Lời nói của chúng ta cũng chỉ là những đường múa, những tiếng hát, những nét họa. Nó có thể vụng về hoặc khéo léo. Nó có thể chuyên chở dược nhiều hay ít cái thấy của chúng ta. Nhưng sự khéo léo không phải chỉ cần thiết ở người sử dụng ngôn ngữ. Chính người nghe cũng phải khéo léo và tinh ý. Bởi ngôn ngữ thường không thoát được những phạm trù ý niệm. Dầu người nói có khéo léo lách thoát khỏi một mớ phạm trù này thì người nghe cũng có thể rơi vào cạm bẩy của những phạm trù ấy . Bởi vì những chai và bình của ta đem ra để đựng nước đều có sẵn những hình thái và dung lượng của chúng. Thiền giả hay nói đến tính cách “bất lập văn tự” không phải nhất thiết là để phủ nhận khả năng diễn đạt của văn tự mà chỉ là để đề phòng sự chấp chặt vào văn tự của người sử dụng cũng như của người tiếp nhận. Những tác phẩm như Trung Quán Luận của luận sư Long Thọ ( sáng tác vào thế kỷ thứ hai dương lịch ) biểu trưng cho ý thức muốn sử dụng ý niệm để đập vỡ ý niệm. Trung quán Luận không nhắm tới sự thành lập một ý niệm hay một luận thuyết nào hết mà chỉ nhằm tới sự phá bỏ tất cả mọi ý niệm, đập vỡ hết cả tất cả mọi chai lọ, ống và bình để cho ta thấy nước là một cái gì không cần hình tướng mà vẫn hiện thực. Trung Quán Luận là những điệu múa nhằm giúp ta bỏ lại các khuôn khổ ý niệm trước khi đi vào sự thể nghiệm thực tại. Ðiệu múa ấy chỉ là phương tiện phá bỏ chướng ngại trên con dường thể nghiệm thực tại mà không phải là một hình ảnh thực tại được mô tả. KIẾN THỨC LÀ CHƯỚNG NGẠI CỦA TUỆ GIÁC Những phát minh lớn của khoa học không phải là hoa trái của suy tư mà là của tuệ giác. Công cụ của nhà khoa học không phải chỉ là trí năng và phòng thí nghiệm mà là cả con người của ông ta, trong dó có phần vô thức thâm sâu. Trí năng dóng vai trò ươm hạt và vun xén. Nó gieo hạt nghi án vào vào mảnh đất tâm. Chừng nào hạt chưa mọc mầm thành cây thì trí năng vẫn còn chưa làm được trò trống gì, chỉ suốt ngày đánh võ trong hư không. Hạt nghi án nở thành mầm tuệ giác vào những lúc bất ngờ nhất, nghiã là những lúc mà trí năng không hoạt động, không “đánh võ trong hư không “. Tuệ giác đó là một cống hiến của công trình ấp ủ của nhà khoa học, trong lúc thức cũng như trong giấc ngủ, trong khi ăn cũng như lúc đi bách bộ. Ðối với nhà khoa học, nghi án vùi chôn trong tâm thức ông, nếu ấp ủ suốt ngày đêm bằng niệm lực thì sẽ có cơ phá giảị Sự phát kiến mới làm rạn nứt những sở tri (kiến thức) cũ và buộc trí năng phải phá bỏ những kiến trúc hiện thời của nó để xây dựng một kiến trúc mới. Kiến thức cũ là chướng ngại cho tuệ giác mới, vì vậy trong Phật học chúng ffược gọi là sở tri chướng. Cũng như các nhà đạt đạo, các nhà khoa học lớn đều có đi qua, những giai đoạn biến đổi lớn trong bản thân. Sở dĩ họ đạt được những cái thấy sâu sắc là vì nơi họ niệm lực và định lực dã khá dồi dàọ Trí tuệ không phải là sự chất dống của tri thức. Trái lại, nó vùng vẫy để thoát khỏi các tri thức ấy. Nó đập vỡ các tri thức cũ để làm phát sinh những tri thức mới phù hợp hơn với thực tại. Khi Copernic phát minh ra rằng trái dất xoay quanh mặt trời thì có biết bao ý niệm về thiên văn học cũ bị sụp đổ, trong đó có ý niệm trên và dưới. Thuyết Lương Tử hiện thời đang phấn dấu mãnh liệt để vượt thoát các ý niệm đồng nhất và nhân quả vốn là những ý niệm căn bản xưa nay của khoa học. Khoa học cũng đang dấn thân trên con đường rũ bỏ ý niệm như đạo học. Khi Phật Thích Ca đưa ra ý niệm vô ngã, ông đã làm dảo lộn không biết bao nhiêu quan niệm về vũ trụ và nhân sinh. Phật đã giáng một đòn lớn trên ý niệm phổ thông và kiên cố nhất của loài người: ý niệm về sự tồn tại của ngã. Những người thấu hiểu được vô ngã thì biết rằng vô ngã là một ý niệm được dưa ra để đánh đổ ý niệm ngã chứ không là một đồ án mới của thực tại. Vô ngã là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Nếu vô ngã chỉ là ý niệm thì nó cũng cần phải phá vỡ như một KHÔNG NÓI NÊN LỜI Nơi con người, cái biết được diễn dịch thành khái niệm, tư tưởng và ngôn ngữ. Cái biết ở dây không phải là tri thức thu lượm được bằng cách chất chứa. Nó là một cái thấy trực tiếp và mau lẹ ; nghiêng về tình cảm thì ta gọi là cảm xúc, nghiêng về trí tuệ thì ta gọi là tri giác. Nó là trực giác chứ không phải là kết quả của suy luận. Có khi nó hiện hữu tràn dầy trong ta nhưng ta không diển dịch nó thành khái niệm được, không dùng hình thức tư duy dể chuyên chở nó dược và do dó không diễn tả nó được thành lời. Nói không nên lời là tâm trạng ta lúc đó. Có những tri giác dược mô tả trong Phật học là bất khả tư, bất khả nghị, bất khả thuyết nghĩa là không thể suy tư, nghị luận và thành lập học thuyết. AI BIẾT Cái biết của ta, ta tự hào là do ta đạt dược; kỳ thực, đó là cái biết của chủng loại ta, diễn biến và tiến hóa từ những kiếp nào xa lắc khi ta còn bơ vơ giữa ranh giới vô cơ và hữu cơ. Nói đến cái biết ta cứ nghĩ ngay đến con người với não bộ hơi lớn của nó mà không nhớ rằng cái biết đang hiện hữu nơi mọi loài vật, ở cả những vật mà ta gọi là “vô tri “. Các loài ong, nhện và tò vò có mặt trong những loài vật ” khéo tay ” nhất. Chúng có thể tạo dựng những kiến trúc thật dẹp. Khi ta quán sát tổ ong, tổ vò vò và lưới nhện, ta thấy chúng có khả năng “biết làm ” ( le savoir-faire ). Ta nói: “Các loài này không biết tư duy, không biết toán học, không làm được đồ án và dự tính. Chúng không có trí tuệ mà chỉ có bản năng”. Tuy vậy, không phải là loài người làm ra tổ ong, tổ tò vò và màng nhện cho các loài nàỵ Chính những con vật bé nhỏ không có “khối óc” đó đã tự xây dựng nên những thứ mà ta phải tấm tắc khen dẹp. Nếu không phải chúng biết thì ai biết ? Chính là chúng, chính là chũng loại của chúng trong lịch trình tiến hóa. Nhìn vào loài thực vật, ta cũng thấy dầy dẫy những sự mầu nhiệm của cái biết. Cây chanh “biết” đâm rễ, làm cành, làm lá, làm hoa, làm tráị Bạn nói rằng cây chanh không có nhận thức thì làm gì biết “làm” có phải không ? Xương sườn, xương sống và các hạch tiết tuyến trong bạn có phải là do bạn vận dụng trí thức của bạn mà làm ra chăng ? Ðó là công trình của cái Biết, một cái biết bao trùm tất cả những cái biết khác trong đó có cái suy tư của bạn. BIẾT TRONG TRỜI XANH Bây giờ bạn thử gạt bỏ khái niệm về ngã, thử dùng một thứ ngôn ngữ không có chủ từ dể xem chúng ta thấy được gì. Ví dụ: mưa. Thường thường ta hay nói “trời mưa”, trời là chủ từ còn mưa là động từ. Nhưng chủ từ không thật sự là một chủ từ. Người Tây Phương nói : it rains, il pleut. Chủ từ it hay il cũng không thực sự chỉ một cái gì hết. Có khi ta nói mưa rơi, mưa được xem là chủ từ còn rơi là dộng từ. Xét lại nói mưa rơi là vô nghĩa. Mưa thì có nước rơi, nếu không có rơi thì không phải là mưa. Vậy ta có thể nói mưa ở Saigon, mưa ở ÐàLat., không dùng chủ từ mà vẫn diễn đạt được thực tạị Ta hãy dùng động từ biết theo kiểu đó, và nói; biết trong con người, biết trong loài ong, biết nơi cây chanh. Nghe lạ tai thật, nhưng chỉ là do thói quen của chúng ta, khi nói là phải có chủ từ. Tiếng biết ở đa^y có thể là một động từ hay một danh từ, như trường hợp “mưa ở Saigon, mưa ở Hà nội”. Nếu mưa Saigon có nghĩa là có mưa ở Saigon thì biết trong con người có nghĩa là có sự biết trong con người, có gì mà không hiểu được. Theo như tôi thấy, cái biết có mặt khắp chốn và biển hiện khắp chốn. Biết trong anh Hai, biết nơi cô Ba, biết nơi con ong, biết nơi cây đào, biết trên thái hư, biết giữa tinh hà. Nếu ngôn ngữ Tây Phương nói il pleut sur Paris được thì cũng có thể nói il pense dans l’azur được chứ sao không. Một thiền sư nào dó, trong một tuần lễ hướng dẫn thực tập quán niệm về vô ngã, có thể đề nghị thiền sinh của mình sữ dụng lối ngôn ngữ không có chủ từ này, và chỉ sử dụng lối ngôn ngữ ấy mà thôi. Tôi tin rằng phương pháp đó có thể đưa tới những kết quả rất tốt. TRONG GIÓ CÓ CÁI BIẾT Chúng ta hãy thử đuà một tí với diệu múa sau đây để “biết” thêm về cái biết. Giả sử tôi nói: tôi biết gió đang thổi. Chữ tôi ở đây, bạn nghĩ, có nghĩa là tâm hơn là thân, và vì vậy nó có nghĩa tâm ( tôi ) biết gió đang thổi. Tâm tức là cái biết. Vậy thì ta đang thực sự nói : cái biết biết gió đang thổi. Sự vô lý nằm ở chổ cái biết biết ( la connaissance connait ). Ta tưởng tượng cái biết là một thực thể tồn tại độc lập với đối tượng biết của nó, cư trú trong đầu ta và vươn ra ngoài cái biết sự vật, giống như là cái thước đo có sẵn, đem ra để do chiều dài sự vật. Ta đã lồng cái biết của ta vào khuôn khổ do chính cái biết của ta tạo tác ra, do đó cái biết mà ta ngỡ là cái biết không còn là cái biết trong tự thân nó nữạ Khi ta nói gió dang thổi (le vent souffle) ta thực sự không nghĩ rằng có một cái gì đang thổi một cái gì. Gió tức là thổi, không thổi tức là không gió. Cái biết cũng vậy: tâm tức là cái biết, cái biết tức là tâm. Cái biết mà ta đang nói tới đây là cái biết về gió. “Biết là biết một cái gì”, vậy gió và cái biết không rời nhau, gió và cái biết là một. Ta chỉ nói đến “gió” là đủ. Sự có mặt của gió bao hàm sự có mặt của cái biết và của động tác thổi. Dồn mệnh dề tôi biết gió đang thổi thành một tiếng “gió” có thể vừa tránh cho ta nhiều lỗi văn phạm vừa giúp cho ta tới gần sự thực hơn. Trong cuộc sống thực dụng hằng ngày, ta đã tập thói quen suy nghĩ và diễn tả theo nhận thức về sự tồn tại của những chủ thể độc lập cho nên ta sẽ gặp một ít khó khăn khi đi vào thế giới phân biệt ( 7 ) của thực tạị ÐỘNG TÁC LÀ BẢN THÂN CỦA CHỦ THỂ ÐỘNG TÁC Trong các mệnh đề như gió thổi, mưa rơi và sông trôi, ta thấy rõ chủ từ và động từ là một: không thổi là không phải gió, không rơi là không phải mưa và không trôi là không phải sông. Xét cho tinh tế, ta thấy chủ thể nằm trong hành dộng và hành dộng tức là chủ thể. Chủ thể với hành dộng là một, cũng như vật chất và năng lượng là một. Ðộng từ phổ cập nhất là động từ hiện hữu (être): tôi hiện hữu, anh hiện hữu, núi sông hiện hữu. Nhưng vì dộng từ này không diễn tả được trạng thái sinh động của vạn vật cho nên người ta hay thay thế nó bằng động từ trở thành (devenir). Hai dộng từ này cũng được người Tây Phương dùng như những danh từ: l’être và le devenir (tiếng Pháp) hoặc being và becoming (tiếng Anh). Nhưng trở thành cái gì mới được chứ ? Tiếng trở thành ở đây thực ra chỉ có nghĩa là chuyển biến không ngừng, và do đó nó cũng có tính cách phổ biến như tiếng hiện hữu. Nó không diễn tả được cái phong cách hiện hữu và trở thành của từng hiện tượng xét riêng. Ví dụ trong trường hợp gió thì hiện hữu hoặc trở thành là thổi, trong trường hợp mưa là rơi, trong trường hợp sông là trôi. Ta thấy ngay rằng nếu dộng từ hiện hữu là hoàn toàn phổ biến thì các động từ thổi, rơi và trôi cũng còn rất phổ biến: (không những mưa rơi mà tuyết, lá, phóng xạ v.v… cũng rơi ). Trong khi đó, động từ mưa là đầy đủ nhất cho chủ thể mưa. Ta có thể nói “mưa mưa” cho đủ chủ từ và động từ, hoặc chỉ cần nói mưa như một động từ ( hoặc như một chủ từ, tùy ý thích của ta). Cứ như thế, bạn có thể nói: người họa sĩ vẽ, thiền giả ngồi thiền, người đọc sách dọc sách, ông vua làm vua, Tuệ Trung làm Tuệ Trung, núi làm núi, mây làm mâỵ Lý do tồn tại của vua là để làm vua, lý do tồn tại của núi là dể làm núi. Làm vua tức là làm tất cả những gì mà một ông vua làm: trị nước, an dân, thiết triều, và một vạn truyện khác. Như trong trường hợp “mưa mưa”, ta không nói “vua làm vua” nữa mà chỉ nói “vua vua” tiếng vua thứ hai là động từ, một động từ không có tính cách phổ biến, chỉ để dành cho nhà vua mà thôi. Mỗi chủ từ trở thành một động từ, và động từ ấy là “lý do tồn tại” ( la raison d’être ! ) của chủ từ ấy. Ví dụ trái núi núi, đám mây mây, Tuệ Trung tuệ trung. Khi ta nói người họa sỉ vẽ, ta nghe như xuôi tai hơn, kỳ thực mệnh đề đó không khác gì mệnh đề nhà vua vua. Mấy ngàn năm về trước đức thánh Khổng đã từng dùng loại ngôn từ này rồị Ngài nói OBJETS INANIMÉS, AVEZ VOUS DONC UNE AME ? Ðã quen nhận thức cái Biết qua hình thức cảm giác và tri giác của mình, chúng ta thường gọi những vật vô cơ là vô tri vô giác, những vật chỉ hiện hữu một cách “trơ trơ bất dộng”. Thực ra các vật này chỉ vô tri vô giác theo nhận định của ta mà thôi. Tảng đá kia là sự tập họp của nhiều nguyên tử do những lực từ điện kết hợp. Nguyên tử không phải là những hạt vật chất đông dặc bất động mà là những khoảng không gian khá đồ sộ trong dó các chất điểm li ti như chất tử (proton), trung hòa tử ( neutron), và điện tử (electron) không ngớt di chuyển với tốc dộ kinh khiếp, suýt soát tốc dộ của ánh sáng, nghĩa là 300,000 cây số mỗi giây. Cái gì dã khiến cho các trường từ điện và các chất điểm hành dộng như thế ? Ta có còn mô tả tảng dá là một vật thể “trơ trơ, vô tri vô giác” nữa hay không ? Những vật vô tri vô giác, Tây Phương gọi là les objets inanimés. Thi sỉ Lamartine có lần hỏi: “Những vật vô tri vô giác kia, chúng bây có linh hồn không vậỷ” ( bjets inanimés, avez vous donc une âmẻ). Linh hồn theo kiểu tư duy và tưởng tượng của con người thì chắc là không có, hoặc không thấy biểu hiện, nhưng linh hồn theo nghĩa một thực thể sống động thì chắc chắn là có. TÁC DỤNG MUÔN MẶT CỦA CÁI BIẾT Cái biết có thể được biểu hiện ra muôn ngàn mặt. Tác dụng của biết, như ta thường thấy, là thấy, là nghe, là cảm, là so sánh, là hồi tưởng, là tưởng tượng, là suy tư, là lo sợ, là hy vọng v.v… Trong Duy Thức học, một môn học chuyên chú về nhận thức trong Phật Giáo, ta tìm thấy nhiều tác dụng của cái biết nữa. Trong trường hợp thức A lại gia, biết có nghĩa là hàm chứa, duy trì, biểu hiện ( 8 ). Trong trường hợp thức Mạt na, biết có tác dụng bám chặt không chịu buông thả. Trong trường hợp ý thức, biết còn có tác dụng sáng tạo, vẽ vời, mơ mộng, cắt xén. Trong trường hợp thức Yêm Ma La, biết có tác dụng chiếu rọi (9). Ta nhận thấy ở bất cứ hiện tượng nào dù là tâm lý, sinh lý hay vật lý cũng có sự có mặt của sự vận chuyển sinh động. Ta có thể nói sự sinh động vận chuyển là tác dụng phổ biến của cái biết. Ta chớ cho cái biết là một vật bên ngoài đến để làm cho vạn vật sinh dộng: nó chính là sự sinh động, nó chính là vạn vật sinh động. Vũ khúc với vũ là một. BẠN HÃY RA NGỒI GẦN MỘT CÂY CHANH Những điều tôi vừa nói với bạn trên đây không phải là những trò biểu diễn của văn tự và tri thức có mục dích giải trí người dọc. Ðó là những dụng cụ mà ta có thể xử dụng để làm rạn nứt và bật tung cái nề nếp suy tư khái niệm dã được un đúc lâu ngày trong cuộc sống thực dụng, cũng như những cái chốt sắt và những chiếc xà beng mà ta thường dùng để tháo gỡ những cái thùng hoặc để tách chẻ một thân cây ra làm nhiều mảnh. Như khi ta luồn một con rựa vào giữa thân tre dể chẻ cây tre ra làm hai, bạn có thể vừa đọc tới đâu vừa vỡ lẽ ra tới đó, và điều này chứng tỏ bạn có công phu quán niệm. Nhưng nếu bạn không thấy như vậy, hoặc chưa thấy như vậy, thì đó có thể là do bạn mới quan sát thực tại lần đầu bằng ý thức không phân biệt và chưa quen với cách nhìn đảo lộn này. Cũng có thể vì những đường múa trên đây của tôi còn vụng. Không sao, thua keo nầy ta sẽ bày keo khác. Không vào được bằng cánh cửa này, ta sẽ vào bằng một cánh cửa khác. Ðiều quan trọng không phải là “hiểu” những lời tôi nói, mà là “thấy” đợc thực tại. Lời tôi nói chỉ là những điệu múa gợi ý, hoặc một ngón tay chỉ trỏ. Bạn phải nhìn bằng con mắt của chính bạn, và con mắt đó chỉ có thể mở ra trong chính niệm. Chương 3 Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài TÂM CẢNH NHẤT NHƯ rừng Người đạo sĩ ngồi nhắm mắt đi vào thiền dịnh không hề phân biệt có thế giới bên ngoài cần phải chặn lại và tâm thức bên trong cần phải thâm nhập. Tuy nhắm mắt nhưng thế giới có mặt một cách rất hiện thực đối với y, không phải ngoài cũng không phải trong và thế giới nà y có mặt một cách linh dộng và hoàn bị nơi đối tượng mà y dang quán niệm, đối tượng đó hoặc là hơi thở của y, chót mũi của y, công án mà y đang nuôi dưỡng, hoặc bất ký cái gì đang là đối tượng của tâm ý “Cái gì” ấy có thể nhỏ như hạt bụi hay lớn như núi Thái Sơn nhưng không phải là một mảnh thực tại rời rạc có thể tách rời ra khỏi thực tại mầu nhiệm và trái lại còn chứa đựng toàn thể cái thực tại mầu nhiệm đó. NHỎ KHÔNG TRONG MÀ LỚN CŨNG KHÔNG NGOÀI MẶT TRỜI LÀ TRÁI TIM TƯƠNG TỨC VÀ TƯƠNG NHẬP MỞ MẮT TRONG ÐỊNH THẤY NGHĨA LÀ THƯƠNG NHỮNG ÐIỀU TRÔNG THẤY MÀ ÐAU ÐỚN LÒNG ÐẠI BI TÂM LÀ BẢN CHẤT CỦA HÒA GIẢI ÐẠI BI TÂM KHÔNG CÓ CHỔ ÐỨNG BẤT DIỆT TRONG SINH DIỆT QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI TRÊN ÐẦU MỘT SỢI TÓC THUYẾT TƯƠNG DỐI GIÚP TA ÐI VÀO THẾ GIỚI TƯƠNG TỨC TƯƠNG NHẬP CHIẾC BÈ ÐỂ QUA SÔNG KHẢ NĂNG RŨ BỎ VÀ KHẢ NĂNG PHÁT MINH Chương 4 Rách tung lưới sinh tử TÂM THỨC TẠO NÊN TƯỚNG TRẠNG CỦA THỰC TẠI Trưa hôm qua, bé Thủy đã làm cho cô giáo ngạc nhiên hết sức. Sau bữa cơm trưa tại trương, bé đã tự động đi lấy chổi và quét sạch lớp học. Trẻ con trong làng, chưa đứa nào từng làm như vậy. Buổi chiều sau lớp học, cô giáo đã bỏ công leo lên tới đồi Phương Vân để nói cho tôi biết điều dó. Tôi nói với cô là trẻ em nghèo bên xứ tôi đều như thế đó, lo lắng việc nhà việc cửa mà không đợi người lớn bảo. Sáng nay thứ tư bé Thủy nghĩ học, tôi đưa bé lên đồi chơi. Hai ông cháu đi nhặt trái thông. Chúng tôi để dành trái thông mà nhen lò sưởi trong mùa đông sắp tới. Bé Thủy nói trời sinh ra trái thông để cho mình nhóm lửa sướng quá. Tôi nói trái thông sinh ra là để làm những cây thông con, chớ không phải cho mình nhóm lửa. Nghe tôi nói, bé đã không thất vọng mà hai mắt nó sáng thêm ra. Hôm qua, tôi có nói đến quan niệm về thời gian và không gian của kinh Hoa Nghiêm và của thuyết Tương Ðối. Phá được ý niệm về không gian và thời gian tuyệt dối, là ta đã bắt đầu làm rạn nứt được nhiều ý niệm liên hệ, lâu nay đã trở thành phạm trù của tư tưởng. Trong thuyết Lượng Tử, các nhà khoa học đã công nhận rằng các điểm cực vi như điện tử không phải thực sự là những vật thể có thể tồn tại độc lập với nhau. Chúng là những “liên hệ hổ tương” (interconnexions) giữa các vật thể, và các “vật thể” này lại là những liên hệ hỗ tương giữa các vật thể khác. Tóm lại, không có vật thể nào có tự tính độc lập. Cái nhìn này thật không xa với cái nhìn “trùng trùng duyên khởi ” và “tương tức tương nhập “. Khái niệm về chất điểm cực vi cũng đã chịu ảnh hưởng nhiều của thuyết tương đối. Các vật thể cực vi mà nhà khoa học gọi là các “liên hệ hỗ tương giữa các vật thể” ấy lại được nhận thức như những thực tại của không-thời-gian bốn chiều luôn luôn ở vào trạng thái sinh động, bởi vì chất lượng (masse) và năng lượng (énergie) là một; chất lượng chỉ là một hình thái của năng lượng ( mưa đồng thời là một chủ từ và một dộng từ ). Chất tử ở đây cũng như hạt bụi hoặc “đầu sợi tóc” trong kinh Hoa Nghiêm, dung nhiếp cả không gian lẫn thời gian. Một chất tử như vậy có thể coi như một “hạt” thời gian; cũng như một niệm (ksana) trong kinh Hoa Nghiêm không những dung nhiếp quá khứ hiện tại và vị lai mà còn dung nhiếp cả không gian và vật thể. Chất tử không còn có thể được hình dung như một vật ba chiều trong không gian nữa, (một hòn bi, hoặc một hạt bụi rất nhỏ) và trở thành trừu tượng hơn trong trí óc ta: có thể tạm gọi chúng (ví dụ điện tử) là những “thực thể bốn chiều sinh dộng trong không-thời-gian” hoặc những “làn sống cơ suất” (ondes de probabilité) nhưng ta cũng biết rằng đó là một thứ ngôn ngữ đặc biệt, trong ấy các từ ngữ như “chất”, “điểm”, “thực thể” và “sóng” không còn mang cùng những ý nghĩa như trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngàỵ Thực tại của thế giới cực vi đã vùng vẫy để thoát ra ngoài thế giới ý niệm, và các chất tử đối với trí óc phân biệt của con người chỉ còn là những số lượng toán học trừu tượng. Có những nhà khoa học đã thú nhận rằng những đặc tính của các vật thể cực vi là do trí óc của họ tạo tác ra chứ thật ra các vật thể cực vi na’y không có những đặc tính dộc lập với trí óc người nghiên cứu chúng (21). Như vậy là cả trong hai lảnh vực cực tiểu và cực đại, các nhà khoa học đều đã công nhận rằng tâm thức là bình chứa của thực tại, tâm thức tạo nên tướng trạng của thực tại. NGƯỜI QUAN SÁT VÀ NGƯỜI THAM DỰ Ðối với những nhà khoa học vật lý mới, người ta không thể tách vật ra khỏi tâm. Nhà khoa học không thể đóng vai trò một chủ thể quan sát thuần túy khách quan. Tâm của ông ta không thể tách rời khỏi thực tại đang được quán sát. John Wheeler nghĩ rằng phải thay thế danh từ “quán sát viên” (l’observateur) bằng danh từ “tham dự viên” ( le participant ). Khi còn là kẻ quan sát thì sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng nhất dịnh là còn tồn tại, nhưng một khi dã là kẻ tham dự thì rất có thể sự phân biệt chủ khách sẽ biến mất, nhường chỗ cho kinh nghiệm trực tiếp. Thái độ “tham dự” đưa ta tới gần phương pháp quán niệm của thiền giả. Khi quán niệm về thân thể chẳng hạn, thiền giả biết quán niệm thân thể nơi thân thể (Kinh Niệm Xứ); nghĩa là y không coi thân thể như một đối tượng biệt lập với tâm quán niệm của y. Kết quả của sự quán niệm, vì vậy, không phải là những đo lường và suy tư trên đối tượng quán niệm mà là một kinh nghiệm trực tiếp ( une perception directe ) về đối tượng ấy. Cái kinh nghiệm trực tiếp này được gọi là nhận thức vô phân biệt (nirvikalpajnana). Thói quen phân biệt tâm và vật của ta đã có gốc rễ rất sâu trong ta rồi, nên ta phải thực tập quán niệm để phá vỡ nó từ từ. Kinh Niệm Xứ, một kinh dạy về thiền tập được các môn dệ của Phật áp dụng ngay từ khi Phật còn tại thế, đưa ra bốn đối tượng quán niệm: thân thể, cảm thọ, nhận thức và đối tượng nhận thức. Sự phân loại thực tại này chỉ nhắm mục tiêu thiền quán mà không nhắm tới mục tiêu phân tích thực tại. Các hiện tượng mà ta gọi là vật chất ( sắc pháp ) được liệt vào trong phạm trù đối tượng nhận thức. Cố nhiên là thân thể và cảm thọ ( và cả nhận thức nữa ) cũng có thể liệt vào phạm trù đối tượng nhận thức khi ta quán sát chúng. Nhưng sự kiện mà kinh gọi mọi hiện tượng trong đó có sắc ( vật chất ) là đối tượng nhận thức cho ta thấy rằng ngay từ buổi đầu, Phật học đã chống lại thói quen phân biệt tâm và vật như hai thực thể riêng biệt. NÚI VẨN LÀ NÚI SÔNG VẨN LÀ SÔNG Các nhà khoa học vật lý cực vi mỗi khi rời lãnh vực khảo cứu của mình để trở về thế giới giao tiếp hàng ngày thường có cảm giác những vật thể này ( như trái cam hoặc cái ghế ) đã mất đi tánh cách thực hữu mà ngày thường chúng vẫn có. Ðó là tại vì khi đi vào thế giới vật thể cực vi, họ không tìm thấy một bản chất nào của vật chất mà chỉ thấy có tâm mình. Alfred Kastler nói : ” Ta chỉ có thể quan niệm được vật chất qua hai khía cạnh bổ túc cho nhau của nó là sóng (onde) và hạt ( particule ), và do đó phải từ bỏ những sự vật mà lâu nay ta quen cho là những thành phần của vũ trụ” ( 22 ). “Vật chất” tuy không phải là trái cam và cái ghế, nhưng ta vẫn phải ngồi trên cái ghế ấy và bổ trái cam ấy mà ăn, bởi vì ta cũng được cấu tạo bằng cùng một “chất liệu” với chúng, dù “chất liệu” đó chỉ là những số lượng toán học của tâm ta. Thiền giả khi đi vào quán niệm có thể khám phá được tính cách tương tức tương nhập của mọi hiện tượng cho nên trong cuộc sống hàng ngày y cũng nhìn trái cam và trái ghế bằng một con mắt khác. Y nhìn núi, nhìn sông thì thấy “núi không là núi sông không là sông” nữa bởi vì núi đã “đi vào ” sông, và sông đã “đi vào” núi ( tương nhập ) , núi đã là sông, sông đã là núi ( tương tức ). Tuy vậy khi muốn tắm y vẫn phải lội xuống dòng sông, chứ không phải leo lên núi, bởi vì trở lại thế giới sinh hoạt hằng ngày “núi vẫn là núi, sông vẫn là sông”. KHÔNG CÓ CŨNG KHÔNG KHÔNG Cái thấy của các nhà khoa học về liên hệ tương sinh tương hiện của các chất điểm chắc chắn là có ảnh hưởng tới cái nhìn của ông ta về thực tại và tạo nên một thứ chuyển biến nào đó trong đời sống tâm linh ông. Thiền giả quán niệm về tính cách tương tức và tương nhập của vạn pháp cũng thực hiện một sự thay dổi trong y: những ý niệm về ngã và về pháp trước kia của y bắt đầu rạn vỡ từ từ và y thấy được sự có mặt của y nơi vạn vật, và của vạn vật nơi y. Sự chuyển đổi trong y là mục tiêu chính của y, là “lý do tồn tại” của y. Vì vậy y không những quán niệm trong giờ thiền tọa mà còn quán niệm trong những lúc đi, đứng, nằm ngồi, nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày nữa.Cố nhiên cũng có những nhà khoa học làm như y: chiêm nghiệm ngoài phòng thí nghiệm, chiêm nghiệm ngay cả trong lúc ăn và lúc tắm. Ý niệm tương duyên về vạn vật có thể gọi là gần gũi nhất với thực tại. Nó đánh đổ bao nhiêu cặp ý niệm đối lập của tâm thức từng giam hãm, cắt xén và bóp méo thực tại ( một và nhiều, trong và ngoài, thời ( gian ) và không ( gian ), tâm và vật…) Nó vừa là một phương tiện phá vỡ vừa là một phương tiện hướng dẫn. Duy thức học gọi ý niệm này là y tha khởi (paratantra). Thiền giả phải khéo xử dụng nó để thể nghiệm thực tại mà không nên xem nó như là một hình tướng của thực tại. Y tha khởi có nghĩa là nương vào các cái khác mà sinh khởi ( y là nương vào, tha là cái khác ). Ðó là tính chất của thực tại. Tính chất này là không có bản chất, không có tự tánh, cũng như một hình tam giác sỡ dĩ gọi là có là vì ba dường thẳng đã gặp nhau. Vì lý do không có tự tánh ( nghĩa là không có bản chất ) cho nên mọi hiện tượng được mô tả là không ( sũnya ). Không ở đây có nghĩa là không có bản chất thực chứ không phải là không có “hiện tượng”. Cũng như chữ chất điểm (particules) trong vật lý học không có nghĩa là những hạt vật chất có tính cách ba chiều tồn tại độc lập với nhau, chữ không ở đây không có cùng một nghĩa với chữ không mà ta dùng trong ngôn ngữ thông dụng hằng ngày. Không ở đây vượt lên khỏi ý niệm có và không dùng thường. Ðể cho khỏi lẫn lộn, các nhà Phật học thường dùng danh từ chân không để nói đến cái không ấy. Thiền sư Huệ Sinh (sống vào thế kỷ thứ mười một đời Lý) từng nói rằng ta không thể dùng các từ có và không để gọi vạn vật được, bởi vì thực tại thoát ra ngoài hai ý niệm có và không ấy: Pháp cũng như vô pháp HOA ƯU-BÁT-LA CÒN ÐANG NỞ Có một phép quán gọi là chân không quán: thiền giả đi vào phép quán này để vượt bỏ ý niệm có và không cố hữu của mình, một ý niệm được cấu thành do nhận thức sai lầm về tính cách độc lập ( ngã ) và thường còn (thường) của các vật thể. Khi cây chanh mới có hoa, ta không thấy trái chanh trên cành và ta nói : “hoa chanh thì có, trái chanh thì không”. Ta không thấy được sự có mặt của trái chanh tiềm ẩn nơi những vật thể đã hiển lộ cho nên ta nói không. Kỳ thực yếu tố thời gian đang từ từ làm cho trái chanh hiển lộ. Nhìn vào cái ghế ta chỉ thấy sự có mặt của gỗ, và ta không thấy được sự có mặt của rừng, của cây, của lá, của bàn tay người thợ mộc, của tâm ta … Kẻ thiền giả hi nhìn vào cái ghế phải thấy được cả vạn hữu trong liên hệ nhân duyên chằng chịt: sự có mặt của gổ kéo theo sự có mặt của cây, sự có mặt của lá cây kéo theo sự có mặt của mặt trời, v.v…. Y thấy được một trong tất cả và dù không nhìn vào chiếc ghế trước mặt y, y cũng thấy được sự có mặt của nó trong lòng vạn hữu. Cái ghế không có tự tính riêng biệt. Nó có trong liên hệ duyên khởi với các hiện tượng khác trong vũ trụ; nó có vì tất cả các cái khác có, nó không thì tất cả các cái khác đều không. Mỗi lần mở miệng nói “ghế”, hoặc mỗi lần khái niệm “ghế” được hình thành trong nhận thức ta là mỗi lần lưỡi gươm khái niệm vung lên và chém xuống, phân thực tại làm hai mảnh: một mảnh là ghế, một mảnh là tất cả những gì không phải ghế. Ðối với thực tại sự chia cắt ấy tàn bạo vô song và cũng phi lý vô cùng. Ta không thấy được rằng tự thân của ghế là tất cả những gì không phải ghế tổ hợp nên. Tất cả những gì không phải ghế nằm ngay ở trong ghế. Chia cắt làm sao được ? Kẻ trí giả nhìn ghế thì thấy sự có mặt của tất cả những gì không phải ghế, vì vậy thấy được tính cách bất sinh diệt của ghế . Hồi nhỏ chắc là bạn có chơi kính vạn hoa ( kaléidoscope ). Bạn biết rằng tất cả những kiến trúc kỳ diệu trong ống kính đều do sự phối hợp của các mảnh vụn mầu sắc và các mặt kính tạo thành. Mỗi cử động nhỏ của ngón tay bạn làm tan biến một kiến trúc kỳ diệu và làm phát hiện một kiến trúc kỳ diệu khác. Bạn có thể nói những kiến trúc kỳ diệu kia có sinh và có diệt, nhưng bạn biết rõ là tự thể chúng ( các mảnh vụng mầu sắc và các mặt kiến) không nằm trên bình diện sinh diệt ấy. Bạn thấy được rằng sự sinh diệt là giả tạo: bản thể của các kiến trúc muôn hình vạn trạng kia thoát ra ngoài sự sinh diệt dó. Nó bất sinh bất diệt. Hãy như vị thiền giả kia, bạn thử theo dõi hơi thở bạn và quán chiếu tính bất sinh bất diệt của thế giới bạn, nghĩa là của bạn. Rồi bạn sẽ thấy sự giải thoát sinh tử chỉ nằm trong tầm tay. Nếu ta phủ nhận sự có mặt của cái ghế tức là ta phủ nhận sự có mặt của vũ trụ van hữu. Cái ghế kia mà không có thì vạn hữu cũng không, bởi vì vậy không ai có thể làm cho cái ghế từ có trở thành không được. Ðem chẻ cái ghế ra, bỏ vào lò sưởi, đốt cái ghế di, nó cũng không thể từ có trở thành không. Nếu bạn thành công trong sự thủ tiêu cái ghế thì đồng thời bạn đã thủ tiêu luôn cả vũ trụ. Cho nên ý niệm sinh diệt dính liền với ý niệm có không. Một chiếc xe đạp chẳng hạn bắt đầu có từ lúc nào và bắt đầu không từ lúc nào ? Nếu bạn nói chiếc xe đạp bắt dầu có vào lúc bộ phận cuối cùng được lắp vào, tại sao trước đó bạn nói rằng ” chiếc xe đạp này còn thiếu một bộ phận ?” Khi chiếc xe đạp hư hoại, không dùng được nữa, tại sao bạn còn gọi là “chiếc xe đạp hư”? Bạn thử quán niệm về giờ sinh và giờ diệt của chiếc xe đạp để rồi có thể thấy được chiếc xe đạp ngoài bốn phạm trù có, không, sinh , diệt. Thi sĩ Rabindranath Tagore trước khi sinh là không hay là có, và sau khi chết, là có hay là không? Nếu bạn đã chấp nhận ý niệm trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm hoặc ý niệm tương hiệp tương thành của các chất tử cực vi, bạn không thể gắn ý niệm không vào cho thi sĩ Tagore dù vào lúc ông chưa sanh hoặc khi ông đã chết. Tagore mà không thì vũ trụ cũng không, tôi cũng không, bạn cũng không. Không phải nhờ “sinh” ra mà Tagore có, không phải vì “chết” đi mà Tagore không. Một buổi chiều đứng trên Linh Thứu Sơn ở tiểu bang Bihar, tôi thấy một mặt trời rất đẹp đang lặn. Thì ra đức Phật vẫn còn ngồi ở đó : Người hành khất năm xưa vẫn còn trên Linh Tôi thường nghe nhiều người than thở rằng sinh ra đời không được gặp Phật… Tôi nghĩ rằng có thể những người này có gặp Phật trên đường đi họ cũng không nhận biết. Không phải chỉ Tagore và Phật Thích Ca là bất sinh, bất diệt, mà bạn và tôi, chúng ta cũng bất sinh bất diệt. Tôi có đây là vì bạn có đó. Nếu trong hai chúng ta một người không thì người kia cũng không. Thực tại thoát ra ngoài ý niệm có không, thực tại thoát ra ngoài ý niệm sinh diệt. Tạm dùng một tiếng chân không để nói về thực tại, để phá vỡ tất cả những ý niệm chuyên giam hãm cắt xén và bóp méo thực tại. Không dùng tâm vô niệm thì không có cách gì thâm nhập thực tại. Tôi tin rằng khoa học đang trên con dường phá vỡ các ý niệm và một mai kia sẽ thấy rằng thực tại thoát ra ngoài mọi đo lường của ý niệm. Ngôn ngữ của khoa học đã bắt dầu có tính cách tượng trưng của thi ca, bởi vì khoa học gia thấy không còn có thể dùng ngôn ngữ của sự sống thực dụng hàng ngày mà diễn tả được cái thấy vô niệm của mình. Bạn có biết là các khoa học gia đang dùng những từ ngữ như “ma lực” ( charme ) và “mầu sắc” ( couleurs) để nói về nội dung các chất điểm không ? NHƯ LAI KHÔNG TỚI CŨNG KHÔNG ÐI Cái thực tại chân không vô niệm ấy còn được gọi là chân như (bhùtatathatả) nữa. Như nghĩa là như thế đó, phải thực nghiệm, không thể diễn tả ( bằng khái niệm và ngôn ngữ ) được. Chữ Chân không quan hệ mấy, cũng như trong danh từ chân không. Tây phương dịch danh từ chân như là suchness hay ainsité, lấy từ những chữ such và ainsi ra, cả hai đều có nghĩa “như thế”. Bạn có một trái sầu riêng trên bàn. Có người hỏi : mùi vị sầu riêng ra sao ? Thay vì trả lời, bạn bổ sầu riêng mời người đó. Như vậy là bạn đưa người đó đi vào chân như của hương vị sầu riêng, không cần dùng khái niệm và ngôn ngữ. Ðể nhắc nhở môn đệ về tính cách bất sinh bất diệt của thực tại, Phật đã bảo họ gọi Người là Như Lai ( Tathảgata ). Như Lai không phải là một mỹ hiệu tôn xưng. Như Lai nghĩa là từ chân như mà tới, từ thực tại vô niệm mà tới ( như là chân như, lai là tới ). Tới từ chân như, ở trong chân như và đi về chân như. Ai mà không tới từ chân như ? Bạn, tôi, con sâu do, hạt bụi,…. tất cả đều từ chân như tới, hiện đang an trú trong chân như và một mai sẽ về chân như. Các động từ tới, ở và đi đều không có nghĩa bởi vì không lúc nào ta rời khỏi chân nhự. Trong kinh Anuràdha ( 23 ), Phật trả lời một câu hỏi đã từng làm cho nhiều tu sỉ đương thời và cả một số đệ tử của Phật nữa thắc mắc. Ðó là câu hỏi để dò xem trong bốn trường hợp này, trường hợp nào dúng : 1) Sau khi chết Như Lai còn hiện hữu “Phật hỏi Anurãdha: • Này Anuràdha, ông nghĩ sao, có thể nhận ra Như Lai nơi hình sắc ( vật chất ) không ? • Bạch Ngài không. • Có thể tìm Như Lai ngoài hình sắc không ? • Bạch Ngài không. • Có thể nhận ra Như Lai nơi cảm thọ, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức không ? • Bạch Ngài không. • Có thể nhận ra Như Lai ngoài cảm thọ, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức không ? • Bạch Ngài không. • Này Anuràdha, chính trong khi ta còn sống đây mà ông cũng không tìm thấy ta ở đâu hết, thì tại sao ông lại thấy cần phải giải quyết vấn đề sau khi chết Như Lai còn hay là mất, hay vừa còn vừa mất, hay vừa không còn vừa không không còn?” Nhà Vật Lý học Robert Oppenheimer, mà người ta thường gọi là cha đẻ của trái bom nguyên tử đầu tiên, đã được đọc đoạn kinh ấy. Ông hiểu được ý thú của kinh, bởi vì ông đã quán sát về chất điểm và thấy chất điểm cũng không thể đem các ý niệm không gian, thời gian và có không mà bắt nhốt được. Ông viết : ” Nếu người ta đặt những câu hỏi bề ngoài có vẻ đơn giản nhất, chúng ta chỉ có thể hoặc nín thinh hoặc đưa ra những câu trả lời mà mới nghe, người ta tưởng là trích từ một cuốn kinh nào đó hơn là những giải bày chính xác của vật lý học. Chẳng hạn, nếu người ta hỏi vị trí của điện tử có nhất dịnh không, ta phải trả lời là “không”, nếu người ta hỏi vị trí đó có thay dổi trong thời gian không, ta phải trả lời là “không” , nếu hỏi điện tử có phải bất động không, ta phải trả lời là “không”, nếu hỏi điện tử có di động không, ta cũng phải trả lời là “không” ( 24 ) “. Bạn đã thấy ngôn ngữ khoa học đã bắt đầu có mầu sắc ngôn ngữ thiền học. Ðọc đoạn kinh Phật nói trên, Oppenheimer nói rằng giới khoa học của các thế kỷ 17 và 18 sẽ không hiểu được những câu trả lời của Phật. Vậy mà Phật đã nói những điều đó hai mươi lăm thế kỷ về trước ! LƯỚI SINH TỬ CÓ THỂ RÁCH TUNG Có một phép quán thứ hai có thể áp dụng thay cho phép quán chân không, đó là diệu hữu quán. Hữu là có mặt, là tồn tại, nhưng diệu hữu là có mặt và tồn tại theo nguyên lý “một trong tất cả, tất cả trong một”, và vì vậy hữu không đồng nghĩa với có trong ý niệm có và không dùng thường. Cũng bởi vậy cho nên có thêm chữ diệu ( có nghĩa là mầu nhiệm ) phía trước. Tuy Oppenheimer dùng luôn bốn lần tiếng “không” để trả lời các câu hỏi về đặc tính của điện tử, điện tử vẫn không phải là không. Tuy Phật nói: ” Ngay trong đời này cũng không tìm được Như Lai”., Như Lai vẫn không phải là không. Kinh Ðại Bát Nhã dùng danh từ bất không ( asùnya ) để nói về trạng huống này. Bất không tức là diệu hữu. Chân không và diệu hữu giữ cho ta không rơi vào hai cái hố thẳm có và không của nhận thức phân biệt. Ðiện tử và Như Lai nằm ngoài ý niệm có không, và tính chất chân không và diệu hữu của diện tử và của Như Lai một mặt kéo ta ra khỏi hai hố có không, một mặt đẩy ta trực tiếp vào thế giới vô niệm. Bạn quán niệm như thế nào ? Khi một người nắm vững được thuyết tương đối nói lên danh từ không gian, người ấy thấy không gian bao hàm cả thời gian và vật thể; tuy y cũng dùng danh từ không gian như mọi người, nhưng nội dung của danh từ ấy đối với y đã trở nên giàu có hơn nhiều, đa dạng hơn nhiều, vì y đã được giải thoát ra ngoài ý niệm không gian có thể hiện hữu độc lập với thời gian và vật thể. Khi bạn quán sát một con ong, bạn phải nhìn thấy con ong ít nhất cũng với cái nhìn của nhà vật lý học tương đối luận. Bạn phải đi xa hơn y, phải thấy được chân không và diệu hữu nơi con ong. Tôi quyết đoán với bạn là công trình thiền tập này, nếu được thực hiện vững chãi trong một thời gian, sẽ đưa người thiền giả là bạn thoát khỏi lưới sinh tử. Trong giới thiền gia, vấn đề sinh tử là vấn dề trọng đại nhất, “sinh tử sự đại”. Tôi nhớ thiền sư Bạch Ẩn với một bức thủ bút của người, trong đó một chử chết được viết rất lớn tiếp theo là mấy chử nhỏ: “Nếu ai thấu triệt được nó mới thực là bậc đại trượng phu” (25). Trước kia tôi nghĩ thoát ly sinh tử là một viễn vọng khá xa vời, cả những lúc tôi đang dạy tại Phật học đường Nam Việt. Nhìn những tượng A La Hán gầy gò, tôi nghĩ phải thực hiện việc diệt dục cho đến khi máu khô lực kiệt thì mới có thể đạt được mục tiêu dó. Nhưng trong thời gian quán sát và thiền tập ở Phương Bối, tôi thấy thoát ly sinh tử không còn là một viễn vọng nữa. Sinh tử chỉ là những ý niệm: thoát ly được những ý niệm ấy tức là thoát ly sinh tử. Tôi thấy ngay rằng việc thoát ly sinh tử nằm trong tầm tay của mình. Tuy nhiên không phải một sự liễu giải có tính cách tri thức lý luận có thể làm cho ta thoát được ý niệm sinh tử. Khi bạn bắt đầu thấy được nguyên tắc tương tức tương nhập của vạn tượng, khi bạn bắt dầu hiểu được thế nào là chân không và diệu hữu, bạn mới chỉ gieo vào tâm thức bạn những hạt giống của giải thoát mà thôi. Những hạt giống này phải nảy nở và trưởng thành theo công phu thiền quán của bạn mới đủ sức làm rạn vỡ ý niệm sinh tử vốn dính liền với muôn vạn ý niệm khác trong sự xây thành ngục tù sinh tử. Nếu nhà vật lý học chỉ thấy được tính cách tương tức tương thành của các chất tử mà không đi xa hơn tri thức luận lý thì cái thấy của ông chỉ có tính cách trang trí mà thôi, cũng như người học Phật mà không thực hiện thiền quán thì mớ hiểu biết của ông ta chỉ có tính cách trang trí. Cho nên bạn phải nắm lấy vận mạng của bạn trong tay và “hạ thủ công phu” cho dến lúc các ý niệm sinh tử và hữu vô bật gốc. Những hình ảnh mà tôi xử dụng dể nói chuyện như mặt trời, trái cam, cái ghế, con sâu, chiếc xe đạp, hạt điện tử v.v… đều có thể là những đề tài do đó bạn phăng tới sự thể nghiệm thực tại. Quán niệm về mặt trời như một trái tim bên ngoài cơ thể bạn, quán niệm về mặt trời trong mỗi tế bào của cơ thể bạn, quán niệm mặt trời như nơi lá rau nuôi dưỡng cơ thể bạn… Bạn sẽ dần dần thấy được “pháp thân”, “mặt mũi chân thật” của bạn, và đến khi bạn thấy cái chết và cái sống không động được tới bạn, không làm bạn nao núng nữa, ấy là bạn thành công. “Sinh tử tương bức hề, ư ngã hà thương” đó là một câu thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ, anh ruột của Hưng Dạo Vương Tần Quốc Tuấn. “Sinh tử thường hay ức hiếp nhau, bây giờ không còn làm gì được nhau nữa”, đó là ý câu thơ. Bạn hãy nhìn kỹ để thấy Tuệ Trung nơi mỗi tế bào của cơ thể bạn. CHIẾC LÁ ÐƯA THẲNG VÀO THỰC TẠI VÔ NIỆM Phái thiền Lâm Tế ngày xưa ưa xử dụng công án. Lợi khí của một công án nằm ở chỗ nó bắt người hành giả nhớ tới nó, và như vậy nó tạo được định lực, được công phu quán niệm thường xuyên. “Mặt mũi thật của ngươi trước khi cha mẹ ngươi sinh ra ngươi ra sao ? ” hoặc “Thế nào là tiếng vổ của một bàn tay” hoặc “Tất cả đi về một, một đi về đâu” là những công án trình bày trong hình thức nghi vấn. Dấu hỏi có năng lực thu hút sự chú ý. Những công án khác như “Con chó không có Phật tính” (26), hoặc “Quách nhiên vô thánh” ( 27 ), hoặc “Ðầu Trí Tạng bạc, đầu Hoài Hải xanh” (28), tuy không nằm trong hình thái câu hỏi nhưng vẫn có tác dụng tạo ra nghi vấn. Nghi tình, như vậy, là một yếu tố quan trọng trong lối thiền tập xử dụng công án. Những công án đưa ra có tác dụng làm rạn nứt khái niệm, nhưng cũng có khi vô tình giam hãm người hành giả quá lâu trong vòng suy tư và lý luận trên căn bản ý niệm. Thường thì chỉ khi nào đi đến chỗ mệt nhoài và bế tắc cùng cực vì khái niệm, hành giả mới chịu vượt thoát ý niệm. Nhược điểm của thiền công án là ở chỗ đó. Người thực hành các phép quán như “tương tức” hoặc “diệu hữu” tuy có thể lấy bất cứ hiện tượng nào làm đối tượng thiền quán nhưng cũng nên sắp đặt để an trú lâu dài với đối tượng ấỵ Ðề tài không có tính cách “nát óc” ( énigmatique ) như công án, nhưng nếu thiền giả quyết tâm hạ thủ công phu thì cũng có thể đặt nó đêm ngày trong sự quán chiếu. Lợi điểm của loại đề tài này (như mặt trời, chiếc lá, con sâu v.v… ) là tránh được cho hành giả những ngày giờ phí phạm trong việc xử dụng trí năng để tìm một câu giải đáp không thể có cho những nghi vấn thực ra không phải là những nghi vấn có thể giải đáp bằng trí năng. Mặt trời, chiếc lá hay con sâu chỉ có thể đưa thẳng hành giả vào thực tại vô niệm. TÂM VÔ NGẠI VÀ CẢNH VÔ NGẠI Còn một phép quán quan trọng nữa, gọi là phép quán tâm cảnh viên dung mà công dụng là đánh đổ ý niệm phân biệt tâm vật. Khi ta nhìn cảnh trời, mây, nước … thì ta phân biệt ba hiện tượng khác nhau. Nhưng nhận xét kỹ càng hơn, ta thấy không những mây và nước có cùng một thể chất mà cả ba thứ đều không thể tách rời nhau mà hiện hữu. Khi ta nói: “con rắn làm tôi hoảng sợ”, ta thấy con rắn như một hiện tượng vật lý và sự hoảng sợ như một hiện tượng tâm lý. Pháp quán tâm cảnh viên dung là phương pháp xoá bỏ ý niệm phân biệt có tính cách nhị nguyên ấy. Nhà toán học Ðức Leibniz nói ông có thể chứng minh rằng không những màu sắc, ánh sáng, nhiệt lượng, mà cả hình thể, dung tích và sự di động của vạn vật nữa, cũng chỉ là những đặc tính mà nhận thức gán cho thực tại. Einstein còn đi xa hơn: ông chủ trương cả thời gian lẫn không gian đều là những hình thái của nhận thức chủ quan.. Vào thế kỷ thứ hai mươi, không ai còn có thể chủ trương như Descartes là tâm và vật là hai thực tại riêng biệt có thể tồn tại độc lập với nhau nữa. Ðơn giản mà nói thì trong mệnh dề “tôi sợ rắn”, ta thấy có tôi, có rắn và có sợ. Sợ là một hiện tượng tâm lý, không có những dính líu dến sinh lý tôi và vật lý rắn, sợ cũng là một hiện tượng trong lưới tương sinh tương duyên của vạn hữu, nghĩa là cùng một thể với vạn hữu. Hiện tượng sợ bao gồm ý niệm rắn và ý niệm người có thể bị rắn cắn. Tự thể “khách quan” của rắn và của người ra sao thì ta không quyết chắc dược, nhưng sợ là một kinh nghiệm trực tiếp: ta gọi sợ là một tác dụng của tâm. Theo phép quán tương tức tương nhập, ta thấy “niệm” nào của tâm cũng bao hàm cả vạn hữu vũ trụ . Niệm tức là một khoảnh khắc của tâm. Nó có thể là tư tưởng ký ức, cảm giác hay ước vọng. Cũng như bất cứ hiện tượng nào, nó chứa trong nó thời gian và sự tác động.. Nghiêng về không gian ta có thể tạm gọi nó là một “chất tử” (particule) của tâm. Nghiêng về thời gian, ta có thể gọi nó là một “hạt thời gian” hay một “sát na”. ( Nên để ý: một sát na cũng được gọi là một niệm ). Một niệm của tâm chứa cả quá khứ, hiện tại và vị lai, và dung nhiếp được vạn hữu vũ trụ. Khi nói đến tâm, ta nghĩ đến những hiện tượng tâm lý như cảm giác, tư tưởng và nhận thức, cũng như khi nói đến vật, ta nghĩ tới những hiện tượng vật lý như núi sông, cây cỏ, động vật. Như vậy là khi ta nói đến tâm hay vật, ta chỉ nghĩ đến hiện tượng ( tâm tượng và cảnh tượng ) chứ không nói đến tâm thể và vật thể. Ta đã thấy rằng cả hai hiện tượng ( tâm và vật ) đều nương nhau mà thành, và thế tính của chúng là sự tương duyên, vậy sao ta không thấy được rằng cả hai loại hiện tượng đều cùng một thể tính ? Thể tính ấy, có người ưa gọi là tâm, có người ưa gọi là vật, có người ưa gọi là chân như, có người ưa gọi là Thượng Dế. Gọi là gì thì gọi nhưng ta không thể lồng thế tính ấy vào các khuôn thước của ý niệm. Thế tính ấy có tính cách vô ngại nghĩa là không bị hạn chế, không bị ngăn cản; dung nhiếp tất cả.. Nếu quan niệm nó là một thì gọi nó là pháp thân ( dharmakaya ). Nếu quan niệm nó là hai thì gọi nó là “Tâm vô ngại”, và “Vật vô ngạị”. (Giáo lý Hoa Nghiêm Tông gọi đó là tâm vô ngại và cảnh vô ngại ). Cả hai dung hợp nhau một cách viên mãn cho nên gọi là tâm cảnh viên dung. TẤM GƯƠNG LỚN TRÒN ÐẦY Nhà Vật Lý Học Erwin Schrodinger, trong một bài diễn thuyết về Tâm và Vật tại trường Ðại Học Trinity ở Cambridge năm 1956, có đặt vấn đề tâm thức là một hay là nhiều. Ông đã đi tới kết luận sau đây: bề ngoài thì hình như có nhiều tâm, sự thực chỉ có một tâm thôị Schrodinger đã chịu ảnh hưởng của triết học Vedanta. Ông đã thao thức mãi về cái mà ông gọi là “mâu thuẩn số học” (arithmetical paradox) về tâm. Như ta đã thấy, ý niệm về một và về nhiều là một khuôn khổ của nhận thức; còn bị nó giam hãm là còn bị cái “mâu thuẫn số học kia giam hãm. Chỉ có khi nào thấy được tính cách tương tức và tương nhập của thực tại thì ta mới thoát được nó.. Thực tại có tính cách phi nhất phi dị, nghĩa là không phải một cũng không phải nhiều ( 29 ). Cái thực tại tâm cảnh viên dung trong đó chủ thể và đối tượng ( tâm và cảnh ) dung hợp mầu nhiệm với nhau được Duy Thức Học miêu tả bằng hình ảnh một tấm kính soi, mang trong nó tất cả mọi hình tượng, không hình thì không kính, không kính thì không hình. Danh từ dùng ở đây là đại viên cảnh trí: tấm gương lớn và tròn dầy của trí tuệ không bị che lấp. Ðứng về mặt hiện tượng, nó lại được diễn tả như một kho tàng duy trì vạn hữu trong đó người giữ kho (chủ thể) và nội dung kho là một. Ðó là ý niệm A lại gia ( alaya ). Duy Thức Học gán cho A lại gia công dụng duy trì mọi hiện tượng vật lý, sinh lý và tâm lý (đồng thời là nội dung của các hiện tượng ấy ) và làm căn bản cho sự phát sinh chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức ( tâm và cảnh ). A lại gia không nằm trong khung không thời gian; trái lại không thời gian phát sinh từ nó. Khái niệm về cảnh (đối tượng nhận thức ) rất quan trọng trong Duy Thức Học. Có ba loại cảnh tánh cảnh, đới chất cảnh và độc ảnh cảnh. Tánh cảnh là tự thân của thực tại ( svabhảva ). Ðới chất cảnh là tánh cảnh đã bị ý niệm chia cắt và đóng khung ( sãmãnyalaksana ). Ðộc ảnh cảnh là bóng dáng của đới chất cảnh duy trì trong ký ức, có thể phát hiện lại trong nhận thức khi có đủ điều kiện. MẠT NA VÀ LIỄU BIỆT CẢNH Từ A Lại gia phát sinh hai loại nhận thức phân biệt gọi là mạt na thức (manyanã) và liễu biệt cảnh thức ( vijnapti ). Liễu biệt cảnh thức làm phát hiện cảm giác, tri giác, khái niệm và tư tưởng. Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và nảo bộ. Chỉ trong trường hợp cảm giác và tri giác thuần tu’y và trực tiếp thì đối tượng của nó mới có thể là tánh cảnh. Trong các trạng thái mơ và mộng, đối tượng của nó chỉ thuần là độc ảnh cảnh. Như vậy có nghĩa là tuy chất liệu của cảm giác thuần túy là thực tại, hình ảnh của thực tại do khái niệm và suy tưởng xây dựng nên đã là bị méo mó và cắt xén rồị Tự thân thực tại là dòng sóng biến động không ngừng, hình ảnh thực tại trong thế giới khái niệm đã trở thành những kiến trúc độc lập trong khuôm khổ thời và không, sinh và diệt, có và không, nhiều và một. Mạt na thức cũng được phát hiện từ A lại gia. Nó là một thứ trực giác, trực giác vê’ sự có mặt của một bản ngã tồn tại và độc lập với thế giới van hữụ Trực giác này có tính cách tập quán và mê muội. Tính cách mê vọng của nó được un dúc bởi liễu biệt cảnh thức nhưng nó lại trở thành lưng dựa cho liễu biệt cảnh thức. Ðối tượng của nó là một mảnh vụn biến hình của a lại gia mà nó cho là cái ta, trong đó có linh hồn và thân xác. Ðối tượng của nó không bao giờ là tánh cảnh mà chỉ là đới chất cảnh. Vừa là nhận thức về ngã, mạt na được xem như là chướng ngại căn bản cho sự thể nhập thực tại. Công phu thiền quán của liễu-biệt- cảnh-thức có thể làm tiêu tán nhận định sai lạc của mạt-na. Trong liễu-biệt cảnh-thức có tới sáu loại nhận thức: thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và ý thức. Ý thức là tác dụng tâm lý hoạt động rộng rãi nhất; khi thì nó hoạt động chung với các thức giác trường hợp tri giác ), khi thì nó hoạt đong các trường hợp khái niệm, tư duy, tưởng tượng, mơ mộng v.v…) đế’n sau năm thức cảm giác, nó đuoc gọi là thức thứ sáu. Mạt na là thức thứ bảy, còn A lại gia là thức thứ tám. NHÌN THỰC TẠI BẰNG CON MẮT TUỆ Như trên đã nói, chỉ trong trường hợp cảm giác thuần túy thì đối tượng nhận thức mới là tự thân thực tạị Nhưng giác quan chỉ có giá trị tương đối, và vì vậy, nội dung của cảm giác dù là tánh cảnh vẫn có tính cách không toàn bộ. Khoa học cho ta biết, tai và mắt của chúng ta chỉ tiếp xúc được vơ’i một phần rất nhỏ những làn sóng từ điện trong vũ trụ. Các làn sóng có tần số lớn như các tia quang xạ ( rayons du radium ), các tia vũ trụ ( rayons cosmiques ) và cả những làn sóng vô tuyến điện thoại ( ondes radiophoniques ) nữa đầy dẫy trong không gian mà tai ta có bắt được đâu. Ánh sáng cũng chỉ là những làn sóng, chỉ khác với những làn sóng âm thanh về tần số mà thôi. Các tia hồng ngoại dối với mắt ta có tần số hơi ngắn cho nên ta không trông thấy được. Tần số của tia X còn ngắn hơn của tia tử ngoại nhiều, cho nên ta cũng không trông thấỵ Giá mà ta trông thấy được quang tuyến X thì cảnh tượng của vũ tru. sẽ khác lạ vô cùng với cảnh tượng mà ta đương thấy hàng ngày. Trong các loài động vật sống chung với ta trên mặt dất, có những loài mà giác quan có thể tiếp nhận dược thực tại rộng rãi hơn giác quan của loài ngườị Chân tướng toàn vẹn của vũ trụ vì vậy phải được nhìn bằng con mắt tuệ ( tuệ nhãn ), mà con mắt này chỉ mở ra khi gốc rễ của ý niệm và chấp trước bật tung. Gốc rễ đó là mạt-na. Ðó là lúc a-lại-gia hiển hiện như một tấm gương tròn sáng soi tỏ vạn hữu. Ðó là trường hợp đại viên cảnh trí ( 30 ) A-LẠI-GIA LÀ MỘT HAY LÀ NHIỀU Ðến đây có thể có người sẽ hỏi : “Như vậy là mỗi người có một a-lại-gia riêng, hay là tất cả đều có chung một a-lại-gia ?” Câu hỏi này, chắc bạn đã biết, chứng tỏ người hỏi chưa thấy được tính cách tương tức và tương nhập của vạn tượng, mà còn lúng túng trong cái mà Schrodinger gọi là “mâu thuẩn số học”. Nhưng người đó có thể hỏi tiếp: “Nếu a-lại-gia không có tính cách cá biệt thì làm sao có ký ức riêng của từng người ? Không lý nhờ đứa trẻ này học bài mà đứa trẻ kia thuộc?” Thật ra trên mặt nước có những đợt sóng, và tuy không thể tồn tại ngoài nước, sóng vẫn có tướng trạng và vị trí của mình. Trong một giòng sông, có thể có nhiều con nước, nhưng tất cả các con nước ấy đều là một dòng sông. Trên mặt biển hiện tượng, ta thấy nhiều gợn sóng lăn tăn; những gợn sóng này nương vào nhau mà tương thành tương hoại. Ký ức của một con người không phải là kho tàng riêng biệt. Nó là một thực tại sinh động liên hệ đến tất cả các thực tại sinh động khác , biến chuyển vào ra không ngừng. Chính thân thể ta cu~ng vậy. Tất cả đều là thực tại, mà thực tại thì thoát ra ngoài tính cách một và nhiều. QUÁN CHIẾU PHÁP THÂN Tất cả những trình bày trên kia của Duy Thức đều chỉ là những khái niệm có tính cách hướng dẩn thiền tập hơn là có tính cách mô tả thực tại. Những hiện tượng mà ta gọi là thức thứ sáu, thức thứ bảy, tánh cảnh, độc ảnh cảnh kia, ta phải nhớ, không phải là những hiện tượng độc lập với nhau và với không thời gian. Một độc ảnh như hình tượng phát hiện trong giấc mơ cũng là một thực tại và hàm chứa sự có mặt của vạn vật. Ta thường nghĩ hình ảnh một nàng tiên ta gặp trong giấc mơ là một hình ảnh không có thực chất bởi vì ta không nắm được cái “chất” của nàng tiên ấy. Nhưng hình ảnh của những kẻ nói cười mà ta thấy trên màn ảnh cũng có thực chất đâu, ta có sờ mó được “chất” của chúng đâu. Tuy vậy nó có thực chất. Thực chất của nó là vạn hữu trong vũ trụ. Sự có mặt của một ảo tưởng kéo theo sự có mặt của vạn hữụ Chính vì có vạn hữu nên có nó. Do đó tính cách diệu hữu của nó cũng đồng với với tính cách diệu hữu của một chất điểm. Chất điểm trong khoa học bây giờ không có tính cách rắn chắc và “thực hữu” như óc ta tưởng tượng. Như ta đã thấy, khi ý thức ( thức thứ sáu ) an trú trong định thì nó không hoạt động tạo tác ( “construire, façonner”) nư~a mà bắt đầu thể nghiệm thực tại trong tự thân thực tại. Ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì, vì vậy ta đừng tưởng tượng rằng ta có thể đưa ý thức về trạng thái “thuần túy” không có đo^’i tượng. Ý thức không đối tượng là ý thức không hiện hành, không hoạt động, tiềm phục trong a-lại-gia như sóng tiềm phục trong nước, nghĩa là không có sóng trong lúc ấy. Có một thứ định gọi là vô tâm định ( có thể gọi là vô tâm tam muội, vô tưởng định hoặc diệt tận định ) trong đó ý thức không còn hoạt động nữa mà thiền giả có thể đạt tới trong khi tọa thiền. Trong những giấc ngủ hoàn toàn không có mộng mị, ý thức cũng trở về tiềm phục trong trong a-lại-gia. Trong lúc thiền quán, thiền giả tập trung sức quán niệm (niệm lực) trên một đối tượng hoặc của ý thức độc lập hoặc của ý thức trong trường hợp cảm giác thuần túy ) và như vậy là định lực bắt đầu phát hiện. Thiền giả duy trì sức tập trung ấy của ý thức trên dốt tượng, nghĩa là trên chính ý thức, cũng như ánh sáng mặt trời liên tục soi trên mặt tuyết hoặc trên lá cây. Sự quán chiếu này không phải là một sự quán chiếu vô tri, trái lại, thiền giả rất minh mẩn. Y có thể ghép đối tượng của y vào hơi thở để duy trì sự tập trung của ý thức. Y có thể lấy một chiếc lá làm đối tượng quán niệm và thấy qua chiếc lá ấy thế giới tâm cảnh viên dung. Y có thể lấy sự có mặt của mặt trời trong cơ thể y làm dối tượng quán niệm và di tới kinh nghiệm pháp thân không sinh không diệt. Trong lúc quán tưởng, y vẫn dùng quán niệm để thấy được tự tính tương tức và tương nhập của thực tại, có ý thức rằng sự quán niệm này không có tính cách tạo tác của ý niệm mà là phương tiện phá vỡ ý niệm. Tất cả là để đi tới ( ngay trong tự tâm và tự thân y ) kinh nghiệm trực tiếp về thực tại mà duy thức học gọi là thực tính duy thức ( vijn~aptimâtratà). TỪ Y THA KHỞI ÐI VÀO VIÊN THÀNH THẬT Phép quán tam tự tính của duy thức cũng không khác mấy với phép quán trùng trùng duyên khởi. Ban đầu người hành giả cũng phải quán sát về tính cách tương quan tương duyên của vạn vật – tính cách y tha khởi- để đu+ợc thấy rằng hình ảnh của thực tại trong nhận thức y là sai lầm, bởi vì đã được xây dựng trong khuôn khổ các ý niệm sinh diê.t, một nhiều, không gian, thời gian, v.v…Hình ảnh đó sai lạc vì có tính cách biến kế chấp. Quán sát thực tại bằng ý thức y tha khởi, dần dần hành giả thoát khỏi lưới ngã chấp và pháp chấp tronh nhận thức ý thức. Tuy vậy tiềm tàng trong a-lại-gia của y vẫn còn những gốc rể của các kiến chấp ấy gọi là tùy miên ( anus’aya) mà y chỉ có thể làm tiêu tán nếu y thực tập quán niệm thường trực trong đời sống hàng ngày để có thể thực sự sống từng giây từng phút trong nhận thức tương duyên của vạn vật. Khi hành giả đã thực sự sống trong hòa diệu đại đồng rồi thì y không cần dến ý niệm y tha khởi nữa, như người đã qua bờ không còn cần tới chiếc thuyền. Bây giờ người ấy an trú trong tự tính duy thức, tự tính này là viên thành thật. Ðó chímh là thế giới của chân như, của tâm cảnh viên dung. TỪ SỰ ÐẾN LÝ, LÝ SỰ VIÊN THÔNG Thế giới ấy, ta không cần phải thực hiện, bởi chân như đã “như thế” từ bao giờ, nghĩa là không thời gian mà thế này hay thế khác. Ðó là thê’ giới mà Hoa Nghiêm tông gọi là lý pháp giới, thế giới của bản thể. Thế giới mà ta tiếp xúc hàng ngày trong đó có núi có sông, có cây cỏ ,có muôn vật, vật nào có vị trí của vật ấy, được gọi là sự pháp giới, thế giới của hiện tượng. Nhưng hai thế giới ấy không phải là hai thế giới cách biệt : thể và tướng dung thông lẫn nhau, như nước và sóng, cho nên cả hai có thể được gọi chung là lý sự vô ngại pháp giới, nghĩa là thế giới trong đó bản thể và hiện tượng tương dung. Tuy nhiên, sự tương dung này có thể thấy được ngay trong lòng thế giới hiện tượng, nơi mà một hiện tượng là tất cả các hiện tượng, nơi mà một là tất cả, và tất cả là một. Thế giới này gọi là sự vô ngại pháp giới. Ðó là đại khái về ý nghĩa bốn pháp giới rất phổ biến trong Hoa Nghiêm tông. Thiền sư Pháp Tạng đơ’i Ðường, một tư tưởng gia cự phách của tông này có làm ra sách Vọng Tận Hoàng Nguyên Quán ( kinh thứ 1876 trong Ðại Tạng Tân Tu ) nói về những phương pháp thiền quán có thể giúp người trừ diệt vọng kie^’n để trở về nguồn, tức là nhận thức hoàn hảo về thế giới của chân nhự Gần dây, có một nhà vật lý học tên David Bohm đưa ra thuyết ” thế giới dung nhiếp và thế giới biểu hiện ” (The implicate order and the explicate order ) đi rất sát với ý niệm sự vô ngại pháp giới. Ông nói rằng những sự vật mà ta nhận thức như có sự hiện hữu độc lập kia thuộc về thế giới biểu hiện ( the explicate order ) trong đó, cái này hình như hiện hữu bên ngoài cái kia. Nhưng xét cho kỹ thì thấy vật nào cũng liên hệ tới toàn vũ trụ, và từ một chất diểm ta ta có thể thấy dược cả vũ trụ hàm nhiếp trong nó và tạo tha’nh nó. Cái nhìn này đưa đến ý niệm về một thế giới dung nhiếp ( the implicate order ) trong đó “thời gian và không gian không còn là những yếu tố chỉ định những liên hệ độc lập hoặc không độc lập giữa các vật thể nữa”. ( 31 ). Khoa học ngày nay, theo ông, phải đi từ cái toàn thể của thế giới dung nhiếp mới thấy dược chân tướng của từng vật thể. Tại cuộc tọa đàm Cordoue, ông đã nói về chất tử : “L’électron est toujours la totalité” (diện tử bao hàm tất cả). Quan niệm của Bohm như vậy rất gần với quan niệm “một là tất cả” của giáo lý Hoa Nghiêm. Nếu nhà Khoa Học này chịu đi xa hơn việc khảo cứu và trình bày lý thuyết vật lý, và thực hiện thiền quán trong tự thân và tự tâm, ông sẽ có thể đạt được nhiều thành quả bất ngờ và đẩy vật lý học đi tới những bước rất lớn. Chương 5 Con hãy nhìn bàn tay con CHÁNH NIỆM CHO TA NIỀM VUI TRONG SÁNG Sáng hôm nay trời trong và ấm, tôi ra vườn cắm ne’ cho những hàng dậu mới lên và cắm thêm vài hàng cây xà lách con. Bé Thanh Thủy đi học sau khi ăn chén cơm rang tôi làm cho nó. Khi tôi trở vào rửa tay thì ông bạn học Thiền đã dậy, dang dánh răng súc miệng trong phòng tắm. Tôi đi nấu một ấm trà và mang dể trên chiếc bàn gỗ trên sân sạn, đợi ông ta ra. Chúng tôi ngồi uống trà dưới ánh nắng ấm áp. Ông bạn hỏi tôi về cách kiểm điểm những thành quả của công phu thiền quán. Tôi nói rằng sự trầm tĩnh và sự an lạc là hai cái thước do tốt nhất. Nếu không có tiến bộ về hai phía ấy tức là có thể có những chỗ kẹt trong công phụ Có người nói đến thiền quán mà không có thầy chỉ dạy có thể di đến chỗ điên loạn. Nhưng gặp được một vị minh sư thì hiếm lắm. Minh sư thì hiếm, mà “bất minh sư” thì nhiều. Chi bằng ta hãy nương tựa ông thầy nơi chính mỗi chúng ta khi ta chưa có duyên gặp một minh sư đúng nghĩa của nó. Muốn tránh dược sự điên loạn, bạn đừng vội vã muốn đi vào những trạng thái thiền dịnh có tính cách “xuất thần”, trái lại hãy dè chừng. Những phép thiền như tứ không định không phải là những giai đoạn thiết yếu mà bạn phải trải qua. Ðừng bao giờ tự ép uổng thân xác hoặc tâm thức bạn. Phải sống thật bình thường và tỉnh táo. Những dòng tôi nói về chánh niệm rất thực dụng và cần thiết, bạn nên đọc lại. Ðó là công phu hàng ngày. Có chánh niệm là có tất cả. Những gì tôi nói trong phần sau của tập sách này, liên hệ tới tam tánh, bát thức, tứ pháp giới v.v… bạn có thể mở ra xem trở lại lúc nào cũng được, không nhất thiết là cần thiết trước khi bạn đi vào công việc thực tập. Một phút thiền quán phải là một phút thoải mái, thanh tịnh và an lạc. Nếu thấy thiền quán là một cực hình, thì dó là người ta đã đi qua một cảnh giới sai lầm. Thiền quán cho ta sự hỷ lạc, nghĩa là một niềm vui. Niềm vui đó, trước tiên là do ta trở về làm chủ lấy ta, không dể bị lôi kéo vào quên lãng ( thất niê.m ). Nắm được hơi thở, nở được nụ cười, động tác thân thể trở nên thung dung, cảm giác và tư tưởng an trú nơi chánh niệm : niềm vui chân thật đến từ những cái ấy. Giữ cho tâm mình có mặt trong mỗi phút giây của hiện tại, đó là công phu thiết yếu nhất của thiền quán. Do công phu thực tập này, không những ta có thể sống đầy đũ, sáng suốt và thâm sâu đời sống của ta mà còn phát hiện những điều mà kẽ khác, vì thất niệm, không thể thấy. TẠO ÐIỀU KIỆN CHO NẾP SỐNG CHÁNH NIỆM Trong cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức xuất bản vào khoảng mười năm về trước, tôi có đê’ nghị trên ba mươi phương pháp thiền tập về chánh niệm, trong dó có phương pháp tổ chức một ngày quán miệm mỗi tuần. Nếu bạn muốn có những chỉ dẩn tường tận, xin tìm xem cuốn ấy, vốn đã được in thành nhiều thứ tiếng. Ðó là một cuốn sách mỏng, rất dể đọc và có cách tính thực dụng. Hiện tôi vẫn còn sống theo những điều nói trong sách. Cuốn sách đó tuy mỏng, bạn có thể đọc nhiều lần, bởi vì mỗi lần đọc bạn lại có dịp nhìn lại quãng dường thực tập đã qua và phát kiến những điều mới, không phải trong sách mà chính là trong kinh nghiệm tâm linh của bạn. Nhiều năm đã đi qua từ ngày cuốn sách dược xuất bản, vậy mà tôi vẫn tiếp tục nhận thư của dọc giả từ nhiều nước gởi về. Thơ nào cũng chỉ là để cảm ơn sự có mặt của quyển sách và cho tác giả biết là cuốn sách đã làm thay đổi đời sống của họ. Mô.t ông Bác sĩ giải phẩu tại Nữu Ước cho biết là ông luôn luôn thực tập quán niệm trong khi làm công việc giải phẫu. ( Tôi nghĩ là ông Bác sĩ này sẽ không bao giờ bỏ quên dao kéo trong bụng bệnh nhân!) Trong những tháng đầu thực tập, có thể bạn có những thời gian bỏ lửng và quên lãng. Nhưng bạn luôn luôn có thể bắt đầu trở lại. Nếu trong gia đình hoặc ngoài xã hội có người cùng thực tập thì đó là một thiện duyên quý báu. Những người thực tập thường nhắc nhở cho nhau, hỏi han nhau về những kinh nghiệm và những sự tiến bộ. Bạn có thể tự nhắc bạn bằng những phương tiện do chính bạn tạo ra. Ví dụ một tờ lá mùa thu bạn nhặt được trong vườn và bạn đã đem cài lên trên tấm kính trong phòng rửa mặt. Một buổi sáng vào phòng rửa mặt, thấy tờ lá ấy, tự khắc bạn mĩm cười, trở lại với chánh niệm, và suốt trong thời gian đánh răng, cạo râu, rửa mặt và thay áo, bạn sống trong sự thung dung thoải mái của chánh niệm. Tiếng chuông chùa chẳng hạn, cũng đã được dùng như một trong những phương tiện nhắc nhở quán niệm. NGƯỜI YÊU ƠI, EM LÀ AI ? Một hôm nào đó nếu cần đề tài thiền quán, bạn hảy chọn một đề tài thích hợp với bạn, nghĩa là một đề tài cho bạn nhiều cảm hứng và có thể thu hút được sức chú ý của bạn đến mức tối đa. Như tôi có nói ở phần trước, đề tài có thể là mặt trời , con sâu, chiếc lá, mặt mũi bạn khi bạn chưa sinh, thời gian, hoặc một hạt tuyết sa. Tất cả mọi hiện tượng, cụ thể hay trừu tượng, vật lý, sinh lý, tâm lý hay siêu hình đều có thể là đề tài thiền quán. Một khi chọn lựa rồi, bạn sẽ theo dõi nó ôm nó vào trong tâm, dành cho nó công trình ấp ủ cần thiết cũng như chiếc trứng cần sự ấp ủ của con gà mẹ để có thể nở thành gà con. Bạn có thể lấy cái “ta” của bạn ra làm đề tài thiền quán, hoặc cái ta của người mình yêu mến nhất, hoặc cái “ta” của người mà bạn thù ghét nhất . Ðề tài nào cũng có thể đưa đến sự giác ngộ, miển là bạn ôm nó được trong chiều sâu của bản thể bạn. Nếu đề tài chỉ được giao phó cho trí năng thì không chắc nó sẽ mang lại kết quả mà bạn mong muốn. Mặt mũi của bạn chẳng hạn. Bạn là ai ? Bạn đã từng quán niệm về đề tài ấy chăng ? Trước khi cha mẹ sinh ra, bạn là ai ? Bạn chưa có hình tích, nhưng bạn đã có hay là chưa có ? Tại sao từ chỗ không có bạn lại có thể trở thành có ? Nếu ngày hôm ấy, cha mẹ của tôi không gặp nhau, thì bây giờ tôi là ai ? Nếu ngày hôm đó, nếu không phải là con tinh trùng ấy mà là một con tinh trùng khác đi vào tiểu noản thì bây giờ tôi là ai ? Tôi là tôi hay tôi là một người anh, một người chị, hoặc một người em của tôi ? Nếu ngày xưa cha tôi không cưới mẹ tôi mà cưới một người đàn bà khác thì bây giờ tôi là ai ? Hoặc nếu ngày xưa mẹ tôi không về với cha tôi mà về với một người đàn ông khác thì bây giờ tôi là ai ? Mỗi tế bào trong cơ thể bạn có một đời sống tự trị, mô~i tế bào của bạn có phải là một cái ta không ? Loại ( espèce ) nằm trong chủng ( genre ), mỗi loại có phải là một cái ta không ? Nếu bạn đem tất cả tâm tư, trí tuệ và tình cảm bạn mà hỏi bạn những câu như thế, nếu bạn đem những câu hỏi đó dìm xuống đáy tâm tư, một ngày kia bạn sẽ thấy những cái thấy bất ngờ. Có khi nào bạn nhìn thẳng vào mắt người yêu và hỏi : “Em là ai ? ” hoặc “Anh là ai” chưa ? Hỏi để người yêu của bạn trả lời, và nhất là để bạn trả lời. Ðừng bằng lòng với những câu trả lời thông tục. Em là ai mà đã đến đây, lấy cái đau của tôi làm cái đau của em, lấy cái vui của tôi làm cái vui của em, lấy cái sống chết của tôi làm cái sống chết của em ? Em là ai mà cái ta dã cùng với cái ta của tôi trở nên như một ? Tại sao em không là một giọt sương, một cánh bướm, một chân chim hay là một cây thông ? Ðừng bằng lòng với những hình ảnh thi ca. Hãy hỏi bằng tất cả tâm can, bằng tất cả những gì tạo nên con người bạn. Bạn chưa từng hỏi người bạn thù ghét nhất ( nếu có ) một câu hỏi như thế. Nhưng rốt cuộc rồi bạn cũng sẽ phải hỏi người ấy một câu hỏi tương tự. Anh là ai mà đã từng làm cho tôi khổ dau, căm giận và thù ghét, hay anh chính là nghiệp quả, là nhân duyên hoặc là ngọn lửa thử thách đã trui luyện nên tôi; nói một cách khác, hay anh cũng là tôi ? Bạn hãy là người ấy. Bạn phải là người ấy, lo âu những nỗi lo âu của người ấy , khổ dau những nỗi khổ đau của người ấy, đau xót những cái đau xót của người ấy. Bạn không thể thực sự “là hai” với người ấy. Cái ta của bạn không phải nằm “bên ngoài” cái ta của người ấy. Bạn chính là người ấy, cũng như chính bạn là người yêu của bạn, cũng như bạn là chính bạn. Bạn quán niệm cho tới khi nào bạn thấy được nơi người lãnh tụ chính trị tàn ác nhất, nơi người tù nhân bị tra tấn dã man nhất, nơi người trưởng giả giàu sang nhất cũng như em bé nghèo ốm trơ xương nhất. Bạn quán niệm cho tới khi bạn thấy bạn nơi hạt bụi hay nơi những tinh hà xa xôi nhất. TIÊU CHUẨN ÐỊNH HƯỚNG Thiền quán sẽ làm nẩy nở cái thấy nơi bạn cũng như sẽ làm nẩy nở nơi bạn khả năng yêu thương, tha thứ, hoan hỷ và buông thả. Bạn biết buông thả, vì bạn không còn cần nắm giữ riêng cho bạn, bởi vì bạn không còn là cái ta bé nhỏ dễ tan vỡ cần phải bảo trọng bằng đũ mọi cách nữa. Bạn trở thành hoan hỷ, bởi vì cái vui của ai cũng là cái vui của bạn, bởi vì bạn không còn ganh ghét và ích kỷ nữa. Bạn trở nên đầy tha thứ, bởi vì bạn không còn duy trì cố chấp và thành kiến . Bạn mở rộng lòng yêu thương, bởi vì bạn biết đau được nỗi đau khổ của muôn loài, và bạn làm hết tất cả những gì trong khả năng của bạn để làm vơi bớt những khổ đau ấy. Bốn đức trên kia, được gọi là tứ vô lượng tâm, là từ, bi, hỷ, xả, hoa trái tự nhiên của cái thấy trùng trùng duyên khởi. Sự phát triển của bốn đức ấy nơi bạn chứng tỏ bạn đang đi trên con dường thiền quán chân chính và bạn có khả năng hướng dẫn kẻ khác mà không sợ bị lầm lạc. LÁ TÌNH THƯ Bây giờ bạn đang ở dâu ? Ngoài ruộng đồng, trên núi rừng, nơi quân trường, trong hảng xưởng, trước bàn giấy, tại bệnh xá hoặc chốn lao tù ? Bạn hãy thở một hơi thở nhẹ nhàng, và thắp sáng mặt trời ý thức trong bạn. Chúng ta bắt đầu bằng hơi thở ấy và ý thức ấy. Cuộc đời như một ảo ảnh, một giấc mộng hay một thực tại nhiệm mầu, điều đó hoàn toàn tùy thuộc nơi bạn tùy thuộc nơi sự tỉnh thức của bạn. Tỉnh thức là một một phép lạ nhiệm mầu. Cũng như một căn nhà tối ám đột nhiên sáng rỡ lên vì có ánh sáng của một ngọn đèn, đời sống sẽ trở thành mầu nhiệm khi mặt trời ý thức bắt đầu chiếu rạng. Tôi có người bạn thi sĩ đã từng bị giam giữ bốn năm trời trong một trại học tập cải tạo trên một vùng rừng núi xa xôi. Suốt bốn năm trời, anh đã thực tập thiền quán và đã giữ dược sức khỏe và niềm vui sống. Ra khỏi trại học tập, thân tâm trui luyện như một lưỡi thép, anh nói rằng trong bốn năm trời anh đã không mất mát gì, và trái lại. Những gì mà anh ” học tập” được không phải do cán bộ giảng dạy mà do chính công phu thiền tập của anh đưa tới. Tôi muốn những giòng chữ này, viết như viết một bức thư tình, tới được dưới mắt của những người anh em của tôi, quen hay lạ, trong những hoàn cảnh mà thường thường người ta nghĩ là bi đát và nhiều thất vọng nhất, để mỗi người anh em tôi có thể làm sống dậy được nghị lực sẵn có trong tự thân. MUỐN AN LẠC THÌ TỰ KHẮC ÐƯỢC AN LẠC Năm 1972, tôi viết bốn chữ nho dục an tắc an trên một cái chóa đèn bă’ng giấy bồi mà tôi đã tự tay làm lấy và đặt trên bàn viết của tôi, tôi nghĩ rằng mình sẽ có dịp thực nghiệm về đề tài này. Dục an tắc an co’ nghĩa là nếu anh muốn được an lạc thì tức khắc anh được an lạc, ngay trong giờ phút nàỵ Khoảng 1976 – 77, hồi tôi còn điều khiển chương trình “Máu chảy ruột mềm” là một chương trình cứu trợ tại Tân Gia Ba, tôi đã có dịp thực tập đề tài thiền quán ấỵ Chương trình “Máu chảy ruột mềm” là chương trình cứu trợ người tỵ nạn trên biển, thực hiện hồi mà trên thế giới dư luận chưa biết tới sự có mặt của các “thuyền nhân “. Chương trình “Máu chảy ruột mềm” là một chương trình hoạt động không công khai, bởi vì các nước Thái Lan, Mã lai và Tân Gia Ba hồi đó không cho phép người tỵ nạn lên bộ . Chúng tôi thuê hai chiếc tàu, một chiếc tên Leapdal và một chiếc tên Roland đi vớt người trên biển và hai chiếc tàu nhỏ nữa tên Saigon 200 và Blackmart để liên lạc và chuyên chở thực phẩm. Hể hai tàu lớn mà đầy thì chúng tôi chở đồng bào đi Úc hoặc đi đảo Guam. Vào lúc hai chiếc tàu lớn vớt được trên 800 người thì chương trình bị phát giác, và hai giờ khuya cảnh sát có lệnh đến vây nhà tôi, vào nhà lục soát. Một người chận cửa trước, một người chận cửa sau và bốn người xông vào. Sau khi lục soát hết mọi ngõ ngách và và hộc tủ, họ xét giấy tờ tôi và ra lệnh cho tôi phải rời lãnh thổ Tân Gia Ba trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Trong lúc ấy hai chiếc Saigon 200 và Blackmark không được phép rời bến để tiếp tế cho người tỵ nạn trên hai chiếc lớn, và các nước Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương cũng không cho tôi đặt chân trên lãnh thổ họ. Chiếc Roland có đủ nhiên liệu có thể lên đường đi Perth với điều kiện là chúng tôi có thể tiếp tế thực phẩm từ Nam Dương, nhưng chiếc này đột nhiên bị hỏng máy. Biển động mạnh và Mã Lai không cho phép nó xáp vào hải phận để tránh gió. Vào một tình trạng như thế, tuy ngồi trên đất liền, tôi cũng thấy tôi lênh đênh trên biển, và sinh mạng tôi là một với sinh mạng của 800 người tị nạn. Tôi đã thực tập đề tài thiền quán dục an tất an, và tôi đã ngạc nhiên thấy mình trở nên an tĩnh một cách lạ lùng. Trong lúc ấy, tôi không thấy có niềm lo sợ nào nữa. Tâm trạng tôi lúc đó không phải là tâm trạng liều. Nó là sự an lạc. Tôi đã vượt qua giai đoạn khó khăn đó và không bao giờ tôi quên được những phút thiền tọa, những hơi thở và những bước chân quán niệm trong thời gian hai mươi bốn giờ ngắn ngủi kia. Bạn hỏi hai mươi bốn giờ đồng hồ giải quyết bấy nhiêu việc, thì giờ đâu mà thiền tập ? Câu hỏi này quan trọng lắm đấy, bởi vì trong suốt cuộc sống mà ta gọi là “cuộc trăm năm” của chúng ta, chúng ta cũng thường than phiền là “không có thời giờ” mà, có phải không ? Tôi không đưa ra cho bạn một câu trã lời đâu. Tôi chỉ có thể nói với bạn sở dĩ tôi thành công được là vì tôi đã nêu ra cho tôi một thử thách lớn: tôi tự bảo, nê’u tôi không thành công bây giờ thì không bao giờ tôi thành công được cả; nếu tôi không đạt tới sự an lạc ngay trong gian nguy này thì sự an lạc trong những lúc không gian nguy có thể là sự an lạc giả tạo. Và tôi đã thành công. Hồi đó, nếu không có dịp gian nguy kia thì chưa chắc tôi đã thành công trong việc thiền tập về đề tài dục an tắc an, và nếu tôi không thực tập thiền quán pháp “dục an tắc an” lúc đó thì tôi cũng đã không có dược sự trầm tỉnh an lạc để có thể giải quyết từng ấy công việc trong khoảnh khắc cấp bách đó. QUẢ THEO LIỀN VỚI NHÂN An lạc là một cái gì có thể hiện hữu trong giờ phút hiện tại. Bạn đừng nói : đợi khi tôi làm xong cái này ( và cái này ) rồi thì tôi mới “khỏe” được, mới “an lạc” được. Cái này là cái gì vậy ? Một mảnh bằng, một sở làm, một cái nhà hay sự thanh toán một món nợ ? Như vậy thì bạn không bao giờ có an lạc đâu, bởi vì sau cái này sẽ có cái khác. An lạc là an lạc ngay từ bây giờ, nếu không thì không bao giờ an lạc hết. Nếu bạn thực sự muốn an lạc, thì bạn có thể an lạc ngay trong giờ phút này. Nếu không thì bạn chỉ có thể sống với “hy vọng sẽ được an lạc trong tương lai” mà thôị Bạn tôi, người thi sĩ, đã không đợi đến hết bốn năm học tập mới chịu an lạc. Y nào có biết là y sẽ ở đó bốn năm. Có người ở đó hơn sáu năm rồi mà đã được về đâu. Chắc y đã thực hành mô.t thiền pháp nào đó tương tự với thiền pháp dục an tắc an. Bạn cũng thử ngồi lại đi và tìm một thiền pháp như thế, để đạt được sự an lạc của chính bạn. Bạn chớ cho là cần phải có công phu lâu ngày chày tháng. Quan trọng nhất là cái muốn của bạn, là ý chí của bạn. Ý chí ấy mà lớn thì quả đi theo liền với nhân, mau hơn một tia chớp giật. Và bạn phải biết nắm lấy và duy trì sự an lạc đó, bằng hơi thở, bằng bước chân, bằng nụ cười, bằng cái nhìn, bằng cái nghe và cái cảm. Cho đến khi bạn là một sự an lạc. TẤT CẢ TÙY THUỘC VÀO HẠNH PHÚC CỦA BẠN Nếu thân thể ta là trái đất thì ta sẽ cảm nhận thấy một cách rõ ràng hơn bao nhiêu vùng đau nhức xót xa trên cơ thể ta. Nơi đây chiến tranh tàn phá, chốn kia bạo lực đè nén, vùng nọ đói khổ lan tràn. Biết bao nhiêu trẻ em bị mù chỉ vì thiếu chất dinh dưởng. Bao nhiêu bàn tay trẻ thơ đang tìm moi những đống rác để tìm những vật khả dĩ có thể đem đổi lấy vài chục gam thực phẩm. Bao nhiêu kẻ đang rên xiết trong chốn lao tù. Bao nhiêu kẻ khác đã bị thủ tiêu vì dám chống đối bạo lực. Thế giới không thể ngừng được sự chế tạo thêm vũ khí độc hại, dù số lượng vũ khí hiện giờ đã có đũ sức tiêu diệt mấy mươi lần nhân loại. Vậy thì tại sao ta có thể rút lui vào rừng sâu hoặc đóng chặt cửa phòng ta mà ngồi thiền quán để tìm sự an lạc của riêng ta, có người sẽ hỏi bạn như thế. Nhưng bạn cũng đã biết rồi, sự an lạc ấy nếu có cũng không phải là của riêng bạn. Chính nhờ sự an lạc đó mà bạn có thể là một với tất cả những kẻ đang khốn khổ; chính nhờ sự an lạc dó mà bạn có thể là một cái gì cho nhân loại, nghĩa là cho chính bạn. Tôi biết có bao người trẻ có chí, có lòng; không muốn lẩn trốn trong hoàn cảnh giả tạo của mình, họ đã dấn thân vào cuộc đời để mong chuyển đổi cuộc đời, chuyễn dổi xã hội. Họ có nhận thức vững chãi về tình trạng xã hội, họ biết những gì họ muốn; tuy nhiên sau một thời gian tranh đấu họ đã nản lòng. Chính vì họ thiếu sự an lạc, một sự an lạc không thể để lại sau lưng mà phải đem theo vào cuộc đời tranh đấu. Sức mạnh của chúng ta không phải là vũ khí, không phải là tiền bạc, không phải là quyền thế: sức mạnh của chúng ta là sự an lạc. Sự an lạc này mà ta mang trong ta giúp ta trở nên bất hoại trong ngọn lửa thư? thách. Ta phải có hạnh phúc trong khi lo lắng cho những kẻ mà ta thương yêu, cho những kẻ mà ta muốn bênh vực. Tôi đã từng gặp trên bước đường tôi đi những người có được sự an lạc ấy. Thì giờ và tâm lực của họ, họ đã để dành rất nhiều trong công việc bênh vực kẻ yếu, vun trồng thương yêu và sự hiểu biết khắp nơi. Họ thuộc về những truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau và họ đã đạt đươ.c sự an lạc của họ bằng cách nào tôi không được biết ( 32 ). Nhưng tôi nhận ra được sự an lạc đó trong khi tôi tiếp xúc với họ. Bạn cũng vậy, nếu để ý một chút, bạn cũng nhận được sự an lạc trong ho.. Và bạn biết rằng cái an lạc ấy không phải là một thứ ngục tù giam hãm bạn trong sự vị kỷ hoặc trốn tránh. Chính nó đưa bạn vào đời để làm được gì mà bạn đã làm. Hoặc để tranh đấu cho công bình xã hội, hoặc để san bằng bớt hố sai biệt Bắc Nam ( 33 ) , hoặc chận đứng đà thi đua chế tạo vũ khí, hoặc để đã phá tâm trạng kỳ thị, gieo rắt thêm sự hiểu biết, ý chí hòa giải hoặc tình thương yêu. Tại trận tuyến nào bạn cũng cần có ý chí kiên trì và quyết thắng. Thiếu sự an lạc, bạn không duy trì được ý chí dó. Vì vậy cho nên bạn cần có chánh niệm và thiền tập ngay trong đời sống hàng ngày của ba.n, dù là đời sống tranh đấu. BỒ TÁT LẤY CON MẮT TỪ BI ÐỂ NHÌN MỌI LOÀI Sự an lạc và tình yêu thương, như tôi đã nói một lần, luôn luôn đi đo^i với sự hiểu biết và không kỳ thị. Có kỳ thị là còn phân biệt, còn phe phái. Chỉ có con mắt thương yêu thực sự mới có khả năng nhìn được thực tại từ mọi quan diểm. Người biết thương yêu có thể thấy mình có mặt nơi một người , và vì có thể nhìn từ mọi quan điểm cho nên có thể vượt được mọi quan điểm để thiết lập được loại hành động phù hợp nhất với đại bi tâm. Ý nghĩa cao cả nhất của hai tiếng hòa giải là ở chỗ đó. Hòa giải không có nghĩa là thỏa hợp với mê vọng và sự tàn ác; trái lại, hòa giải là chống đối thường trực với mọi hình thức mê vọng và tàn ác nhưng với tâm đại bi và cái nhìn siêu việt phe phái. Phần đông trong chúng ta ều theo phe phái, đều thiết lập chính tà căn cứ trên những dữ kiện ít oi mà ta hu lượm được, hoặc trực tiếp, hoặc qua các hoạt động tuyên truyền. Chúng ta thường cần một sự bất bình trong lòng mới hành động mạnh dạn được, dù là một sự bất bình chánh đáng. Nhưng bất bình không đủ. Thế giới chúng ta không thiếu người dấn thân hoạt động. Thế giới chúng ta chỉ thiếu người có nhận thức rộng rãi để có thể thương yêu, để có thể từ bỏ phe phái mà ôn trọn được cả thực tại nhân loại trong lòng như một gà mẹ ấp ủ tất cả gà con của mình dươ”i hai cánh xòe rộng. Quán niệm về “trùng trùng duyên khởi” là một trong những phương tiện đi vào nhận thức ấy. Có nhận thức ấy rồi bạn sẽ không còn dễ dãi vung gươm phân biệt lên để chia cắt thực tại nữa. Bạn sẽ vượt được ranh giới phe phái, thoát khỏi bức tường chánh tà, và thấy được rằng phương tiện và cứu cánh chỉ là một. Bạn hãy quan sát cho đến khi nào bạn có thể thấy rằng khuôn mặt na’o trên xe điện ngầm (métro) cũng là khuôn mặt bạn, thân hình trẻ con gầy đét nào ở Nicaragua cũng là thân hình bạn, cho đến khi nào bạn có thể đói có thể đau trong cơ thể của mọi loài thì bạn thực hiện ca’i thấy vô phân biệt và đại bi tâm. Lấy con mắt thương yêu mà nhìn mọi loài, mọi người ( từ nhản thị chúng sanh – Kinh Pháp Hoa ), đó là khả năng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trên đường đời, chúng ta đã có duyên gặp được những con người biết nhìn đời bằng con mắt từ bi : Bồ Tát Quán Thế Âm có mặt nơi họ Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có mặt nơi ta mỗi khi ta quán niệm về sự thực thứ nhất trong bốn sự thực mầu nhệm về cuộc đời. Ai nói cầu đức Quán Thế Âm là không linh ứng ? Quan thế Âm hiện tới trong bạn cả trước khi bạn mở miệng nguyện cầụ CON HÃY NHÌN BÀN TAY CON Một anh họa sĩ bạn của tôi xa nhà đã gần ba mươi năm trời nói với tôi là mỗi lần nhớ mẹ, anh chỉ đưa bàn tay của anh lên nhìn là thấy đở nhớ. Mẹ của anh là một người đàn bà Vi ê.t Nam của nền văn hóa cũ; bà chỉ võ vẽ đọc dược chữ nho mà chưa hề đọc sách triết học và khoa học Tây Phương. Trước khi anh rời quê hương, bà đã nắm lấy tay anh mà nói : “Khi nào con nhớ mẹ, thì con cứ đưa bàn tay con lên nhìn, là tự khắc con thấy mẹ”. Ðậm đà thay câu nói chân tình đó. Trong gần ba mươi năm, anh họa sĩ đã đưa bàn tay mình lên ngắm không biết bao nhiêu lần. Sự có mặt của bà trong anh không phải chỉ thuần là một sự có mặt theo nghĩa di truyền học. Tâm hồn bà, mơ ước bà, sự sống của chính bà đều có mặt trong anh. Theo tôi biết, anh họa sĩ này có thực hành thiền tập. Tôi không rõ anh đã đưa đề tài “nhìn bàn tay” lên địa vị một công a’n thiền hay chưa, bởi vì tôi nghĩ đề tài ấy, đối với anh, có thể đưa anh đi xa lắm trên bước đường thiền quán. Từ bàn tay của anh, anh sẽ đi thấu suốt vào thực tại vô thỉ vô chung. Anh sẽ nhận thấy trăm ngàn thế hệ đi trước anh hiện giờ đang là anh và trăm ngàn thế hệ đi sau anh bây giờ cũng đang là anh. Từ kiếp xa xưa nào đến giờ dòng sinh mạng của anh chưa bao giờ dứt đoạn, vì vậy cho nên bàn tay anh còn hiện hữu đó, như một thực tại bất sinh bất diệt. Mặt mũi anh năm trăm triệu năm về trước, và mặt mũi anh năm năm triệu năm về sau, anh có thể nhận ra được. Anh có mặt không phải chỉ như một truyền thống chủng loại xuôi chảy theo trục thời gian; anh còn có mặt như một hệ thống duyên khởi từng từng lớp lớp giao nhau trong không gian nữa, và vì thế mỗi tế bào nơi anh đều bất sinh bất diệt như anh. Ðề tài “nhìn bàn tay” của anh , trong trường hợp anh, có thể có tác dụng lớn gấp mấy lần đề tài “tiếng vỗ tay của một bàn tay” do thiền sư Tiên Nhai đề khởi. Mùa hè năm ngoái khi con cháu của tôi tư’ một xứ xa về thăm tôi tại Phương Vân Am, tôi đã trao cho nó đề tài “nhìn bàn tay” để nó gìn giữ như một đề tài thiền quán. Tôi có cho nó biết là mỗi hạt sỏi, mỗi chiếc lá và mỗi con sâu trên đồi Phương Vân đều có mặt trong bàn tay nó. TẠI SAO CÔ KHÓC ? Mới mấy tháng trước đây, giới thân cận chính quyền ở thành phố Hồ Chí Minh có đưa ra tin là sau một trận đau tim, tôi đã qua đời. Tin này gây xáo trộn khá nhiều và làm lợi cho sở vô tuyến viễn thông không ít. Ni sư P.H. mới cho tôi biết là tin này tới Ni viện Từ Nghiêm vào lúc ni sư đang giảng học trong một lớp ni sinh trẻ tuổi. Cả lớp la(.ng đi khi nghe tin này và trong số các ni sinh có một cô ngất xỉu. Tôi bị đày ra khỏi xứ đã mười mấy năm vì những hoạt động hòa bình, chắc chắn là tôi không quen biết vị ni sinh trẻ tuổi này, cũng như tôi chưa được quen biết cả thế hệ tăng sinh và ni sinh trẻ tuổi mới lớn lên bây giờ. Sống chết là chuyện giả trá bề ngoài, tại sao cô khóc ? Cô đang học Phật và đang làm những chuyện tôi làm thì cô còn đó là tôi còn đó. Ðã không thì không bao giờ trở thành có, đã có thì không bao giờ trở thành không, cô có thấy điều đó chưa ? Nếu một hạt bụi mà ta không thể làm cho nó từ có trở thành không thì một con người cũng thế. Trên thế giới, người ta đã tìm cách thủ tiêu bao nhiêu người từng tranh dấu cho nhân quyền, cho tự do và bình đẳng xã hội, nhưng không ai thực sự thủ tiêu được aị Những người họ muốn thủ tiêu vẫn có mặt hoài hoài, và khắp nơi, cô có biết không ? Chúa Ki Tô, thánh Gandhi, Lambrakis, Mục sư Martin Luther King, cô nghĩ họ là “những người chết” hay sao ? Cô là chính họ. Cô mang trong họ từng tế bào của cộ. Lần sau, cô có nghe một cái tin như thế thì cô phải mỉm cười mới được. Nụ cười lặng lẽ của cô sẽ chứng tỏ rằng cô có trí tuệ và nghị lực lớn. Ðạo Pháp và nhân loại trông đợi rất nhiê’u nơi cộ. TẤT CẢ NẰM Ở TRONG MỘT CÁI BIẾT Tôi có người bạn là nhà khảo cứu khoa học, hiện dang hướng dẫn cho nhiều sinh viên làm luận án tiến sĩ khoa học, làm gì cũng muốn cho scientifiquẹ Nhưng ông bạn này lại làm thơ, thành ra nhiều khi anh ấy không được scientifique cho lắm.Mùa Ðông năm ngoái, ông bạn của tôi trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần khá lớn. Biết được tình trạng nghiêm trọng, tôi gởi lên cho anh một bức họa nhỏ trong đó chỉ có hình một con sóng vươn đầu trên nước bạc, và một hàng chữ tôi viết bên dưới : ” tự bao giờ, sóng vẫn sống đời sống của sóng và đời sống của nước cùng một lúc và anh thở là thở cho tất cả chúng tôi “. Ghi chú (1) Dấu chân trên cát (2) Trong Duy Thức Học, nếu niệm đi với định và tuệ, thì thất niệm đi với tán loạn và bất chánh tri. Tán loạn và bất chánh tri chỉ là những gì ngược lại với định và tuệ. Niệm, định và tuệ là ba trong số năm tâm sở biệt cảnh, còn thất niệm, tán loạn và bất chánh tri là ba trong số hai mươi sáu tâm sở bất thiện. (3) Fritjob Capra, The Tao of Physics, The Chancer Press, Suffolk. (4) ” Tư lương cá bất tư lương để, bất tư lương để như hà tư lương? Phi tư lương tức ngọa thiền chi yếu giả”. ( 5 ) Satipatthan sutta, kinh thứ 10 trong Trung Bộ Kinh, được xem như là kinh căn bản về thiền quán của Nam Tông. Bạn có thể tìm thấy bản dịch Việt Ngữ trong cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức, Lá Bối, Paris 1976. (6) ” Les termes objectif et subjectif ne designent que des cas limites. Par la mécanique quantique, nous savons qúil ne peut exister aucun phénomène totalement objectif, c’est à dire independant de l’état de l’observateur. Corrélativement, tout phenomène subjectif présente une face objective”. (Brian D. Josephson, Science et Conscience, Stock, Paris 1980) (7) Thực tại không thể chứa đựng trong khuôn khổ các ý niệm phân biệt (8) A lại gia, thức thứ tám, có tác dụng hàm tàng, tức là cất chứa. Ý niệm về hàm tàng được diễn tả bằng các danh từ năng tàng ( khả năng hàm chứa ), sở tàng (nội dung được hàm chứa ) và ngã ái chất tàng ( bị thức thứ bảy là mạt-na bám lấy cho là cái ta). A lại gia lại còn có tác dụng trì chủng, nghĩa là duy trì tất cả các chủng tử (tức là năng lượng) của vạn pháp, và tác dụng dị thục nghĩa là chuyển biến và chín muồi dể làm phát hiện ra các hiện tượng sinh lý, tâm lý và vật lý. Mạt-na, thức thứ bảy, là một tác dụng bám chặt lấy một phần của A lại Gia mà cho là ngã _ tác dụng nầy gọi là tư lượng. ( 9 ) Yêm-ma-la-thức là tên của thức a-lại-gia khi thức này đã thoát khỏi sự níu kéo của thức mạt na. ( 10 ) Rất nhiều người nghĩ rằng đi vào tứ thiền và tứ không định là đi vào trạng thái tâm không còn đối tượng. Thực ra tâm lúc nào cũng có đối tượng, nếu không, tâm không phải là tâm. Trong tứ không định, đối tượng của tâm là sự vô biên của không gian, sự vô biên của thức, tính cách vô sở hữu của vạn vật hoặc tính cách vừa có vừa không của ý thức. Ðịnh chỉ là trạng thái của nhận thức trong đó không có sự phân biệt chủ thể và đối tượng, nghĩa là trong đó tướng phần của thức không bị kiến phần của thức đối tượng hóa, cho là độc lập ngoài nó. Tướng phần ( nimittabhãga ) và kiến phần ( dars’anabhãga ) là hai yếu tố chủ thể và đối tượng tương sinh tương thành của thức, không thể tồn tại ngoài nhau. Cả hai cùng có một bản thể: đó là tự thể phần hoặc tự chứng phần, tức là bản chất của thức. ( 11 ) Nguyễn Công Trứ ( 1778 – 1859 ) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, quê làng Uy Viễn ở Hà Tỉnh. ( 12 ) Walt Whitman, Song of myself: “Do it contradict myself ? Very well then… I contradict myself I am larger … I contain multitudes”. ( 14 ) “Il s’agit ici au contraire de pousser jusqu’au bout la conception des particules en tant que réseau d’interconnexions relationnelles. La philosophie du bootstrap renonce non seulement à l’idée de “briques” élémentaires de la matière, mais à quelque entité fondamentale que ce soit: lois, équations ou principes. Pour elle, l’univers est un tissu dynamique d’évènements interdépendants. Aucune propriété d’une quelconque partie de ce tissus n’a valeur de base: toutes résultent des propriétés des autres parties, et c’est la cohérence globale de leurs relations mutuelles qui détermine la structure de tout le tissụ” Fritjob Capra, Le Tao de la Physique, bài tham luận tại tọa dàm Cordue, in trong Science et Conscience, les deux lectures de ‘Univers, Stock, Paris, 1980. ( 1 5 ) Vikalpa ( 16 ) L’imagination et L’Ordre Impliqué, bà tham luận của David Bohm tại cuộc tọa đàm Cordoue ( tr. 453, Science et Conscience, Stock, Paris, 1976 ). ( 17 ) Erwin Schrodinger, My view of the world, Cambridge Univ. Press 1964, London. ( 18 ) Pháp Tướng Tông : một tông phái Phật Giáo chuyên tham khảo về tướng trạng của vạn pháp. ( 19 ) Những tiếng vô cùng và vô tận vì tạm dùng nên được đặt trong vòng kép. ( 20 ) Các độc giả không quen thuộc với thuyết tương đối có thể chưa hiểu được thế nào là cái liên hệ không-thời-gian bốn chiều mà Einstein nói đến. Trước Einstein, nhà toán học Ðức Minkowski đã từng nói là nếu tách biệt khỏi nhau, không gian và thời gian chỉ là những bóng ma không có thực, chỉ khi nào hai thứ đó phối hợp với nhau thi’ chúng mới diễn bày một thực tại. Thuyết tương đối cho rằng tất cả mọi hiện tượng vật lý đang di động ( tất cả mọi tảng đá trên trái đất cũng đang di động theo trái dất ) đều chỉ có thể tự xác định cùng một lúc trong không gian và thời gian. Ví dụ một chiếc máy bay cất cánh từ Paris để đi New Delhi: người kiểm soát phi vụ dưới mặt đất không những phải biết vĩ tuyến x, kinh tuyến y, cao dộ z mà thôi; ông ta cũng phải biết thời gian t nữa thì mới đóan định được vị trí của chiếc máy bay trong suốt lộ trình. Thời gian ở đây là chiều thứ tư vậy. Không gian, thời gian, vật thể và sự di động liên đới với nhau mà hiện hữu, và khi mật độ ( densité ) của vật chất lớn thì không gian gần đó cong lại. Ánh sánh tinh tú đi ngang những khối vật chất như mặt trời đi theo một đường cong, bởi vì không gian ở đây cong hơn những nơi mà mật độ vật chất yếu. Ánh sáng là năng lượng vì vậy vì vậy nó cũng có chất lượng ( masse ), bởi vì vật chất và năng lượng là một, theo công thức trứ danh e = mc2, trong đó e la’ năng lượng, m là chất lượng và c là tốc độ ánh sáng. Sự có mặt của vật chất kéo theo tính cách “cong” của không gian, và vì vậy trong thuyết tương (21) “L’électron ne possède pas de propriétes indépendantes de mon esprit” Fritjof Capra, Le Tao de la Physique, bài tham luận tại tọa dàm Cordoue, ( Science et Conscience, Stock, Paris 1980 ) (22) “Il faut considérer la matière sous ses deux aspects complémentaires, onde et particule, et renoncer à ces objects ou à ces choses dont était constituée pour nous depuis toujours la nature”( Alfred Kastler, Cette Étranger Matière, Stock, Paris, 1976 ) ( 23 ) Samyutta-Nikaya ( 24 ) “À des questions en apparence des plus simples, nous allons êtres amenés soit à ne donner aucune réponse, soit à en fournir une qui, a première vue, fait penser à un étrange catéchisme plutôt qúaux affirmations catégoriques de la physiquẹ Si l’on demande par exemple si la position de l’électron reste la même, nous devrons répondre “non”; si l’on demande si elle varie au cours du temps, nous devrons repondre “non”; si l’on demande si l’électron est immobile, nous devrons repondre “non” et si l’on demande s’il est en mouvement, nous devrons toujours répondre “non” ( J.R.Oppenheimer, La Science et le bon sens, Gallimard, Paris 1955 ). ( 25 ) “Tử, nhược nhân kiến triệt danh đại trượng phu” ( 26 ) Tức là công án “vô” của Triệu Châụ ( 27 ) “Không có gì là thánh cả”, câu trã lời của Bồ Ðề Ða.t Ma cho vua Lương Võ Dế khi vua này hỏi về “ý nghĩa thâm sâu nhất của thánh đế” ( 28 ) Một người hỏi thiền sư Mã Tổ: Ý dịnh của Ðạt Ma từ Ấn Dộ qua đây là gì ? Xin thầy cho con biết mà đừng dùng những mệnh đề phủ định và khẳnh định nào hết. Mã Tổ nói : Hôm nay ta mệt, ngươi đến hỏi sư huynh Trí Tạng, Trí Tạng nói : ” Tại sao không hỏi thầy ?” Người ấy nói : ” Thầy bảo tôi hỏi sư huynh”. Trí Tạng nói ” “Hôm nay tôi nhức đầu, xin đến hỏi sư Hoài Hải”. Người ấy tới hỏi Hoài Hải, Hoài Hải nói : “Cái đó tôi không biết”. Người kia trở về báo cáo với thiền sư Mã Tổ. Mã Tổ bảo ” “Trí Tạng đầu bạc, Hoài Hải đầu den”. ( Công án thiền thứ 73 trong Bích Nham Lục ). (29) Chữ Dị có nghĩa là “khác”, cũng có nghĩa là “đa nguyên” (30) Ðây chỉ là những nét vắn tắt về Duy Thức cần thiết cho công phu thiền quán. Bạn đọc muốn tham cứu rộng rãi hơn thì xin đọc Vấn đề Nhận Thức Trong Duy Thức Học của Nhất Hạnh, Lá Bối xuất bản lần thứ ba, Paris 1978. ( 31 ) David Bohm, Wholeness and the Implicate Order, Routledge and Degan Paul, London , 1980 ( 32 ) Tôi không nghĩ rằng chỉ có trong truyền thống đạo Phật mới có tuệ giác. Ở đâu hể có sự sống là có tuệ giác. Vì vậy tôi tôn trọng mọi truyền thống văn hóa và tôn giáo. Một truyền thống có thể hư nát, không chuyên chở được tuệ giác nữa, nhưng tuệ giác có thể phục sinh bất cứ lúc nào, bởi chính nó đã làm phát sinh truyền thống. Ðời sống của chính bạn là một nguồn tuệ giác: mỗi thế hệ phải đóng góp phần mình cho dòng tuệ giác, đóng góp bằng kinh nghiệm sống của chính mình. Tuệ giác nằm trong sự sống, vậy nên kinh điển và kinh nghiệm do những thế hệ đi trước trao lại cần được bạn thực nghiệm , kiểm chứng và cuối cùng, bồi đấp. Có phát kiến và bồi đấp thì ta mới không phụ công khai phá của tiền nhân. (33) Bắc là những nước giàu, Nam là những nước nghèo. |
Previous Post
Những truyện cổ Việt Nam mang màu sắc Phật Giáo