Sách hay Phật Giáo

Cuộc Đời Thánh Tăng Ananda

Cuộc Đời Thánh Tăng Ananda (phần 1)

Tác giả: Hellmuth Hecker

Nguyễn Ðiều soạn dịch (1991)

Cuộc đời thánh tăng Ananda

Cuộc đời thánh tăng Ananda

Lời Ngỏ

Chư tăng, ni các chùa truyền thống đến ngày mồng một, rằm âm lịch mỗi nửa tháng trong lễ lạy thù ân đều xướng danh hiệu: “Nam mô Khải giáo A Nan Đa tôn giả”. Ngài là vị đệ tử số một của đức Phật trong số mười vị có biệt tài xuất chúng, và là một bậc đại thánh tăng.

Để hàng Phật tử học hỏi, chiêm ngưỡng noi gương Ngài, Pháp Bảo cho ấn hành tác phẩm ” Cuộc Đời Thánh Tăng A Nan Đà” này 1000 cuốn, nhân dịp lễ vía đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn Rằm tháng Hai âm lịch, gởi tặng quý đọc giả bốn phương, như món quà nhỏ quí đầu năm Ất Hợi.

Xin tùy hỷ công đức pháp thí quý đạo hữu Phật tử đã góp một phần nhỏ trong việc ấn loát, trợ duyên tiến trình tu học tịnh hóa thân tâm, giải thoát nghiệp chướng lầm mê.

Cầu nguyện pháp giới chúng sanh giải trừ ác nghiệp; luôn được an lạc giải thoát tự tại trong suối nguồn từ bi vô lượng của chư Phật, các bậc Bồ Tát Đại nhân.

Úc Đại Lợi ngày vía Phật nhập Niết Bàn
15 tháng 2 Ất Hợi (15-3-95)

Lời Giới Thiệu
Sống ở xã hội Âu Mỹ mà giữ được tâm niệm phục vụ văn hóa Đông Phương, là một điều tương đối ít người Á Châu tình nguyện làm. Càng ít hơn nữa là nhận lấy công tác soạn dịch một số kinh sách Phật Giáo, mà không cầu lợi nhuận!

Khi ‘diễn đạt’, dịch giả đã phải tự sống bằng hai con người khác nhau: Con người thứ nhất là ‘đồng hương’ của nguyên tác, để cố gắng ĐỌC và HIỂU tối đa nội dung cuốn sách. Và con người thứ hai là ‘kẻ khác ngôn ngữ’ với nguyên tác, để diễn đạt lại những phần hay, những nét chính, một cách trong sáng, ra Việt ngữ, cho đồng bào mình đọc.

Những điểm đáng giới thiệu hơn hết là ‘chỗ đứng’ của dịch phẩm trong muôn ngàn cuốn sánh Việt ngữ. Chúng tôi muốn nói đến sự cần thiết của một bản dịch làm tài liệu, bao giờ cũng ‘độc đáo’ hơn, nếu dịch phẩm ấy trước giờ chưa được ai thực hiện. Và cho đến nay, trong tủ sách Phật đã chẳng có nhiều chi cho lắm! Nếu không muốn nói dịch giả tập sách nầy là người đầu tiên đã nhận lãnh công tác ấy!

Chúng tôi nhận thấy trong số 12 tác phẩm (vừa dịch, vừa soạn, và vừa sáng tác) của dịch giả ấn tống, đã có đến 6 cuốn sau đây, nói về Chư Đại Đệ Tử Phật.

– Cuộc Đời Đức Xá Lợi Phất

– Lịch Sử Đức Mục Kiền Liên

– Cuộc Đời Thánh A Nan Đà

– Gương Lành Thánh Đại Ca Diếp

– Tu Đà Cấp Cô Độc

– A Nậu Lâu Đà

Chúng tôi hân hạnh giới thiệu dịch phẩm A Nan Đà thuộc loại THANH VĂN SỬ nầy đến chư vị Phật tử xa gần.

Sa Môn THÍCH HỘ GIÁC
(Nguyên Giám đốc Phật Học Viện Pháp Quang và Giáo sư Pali Viện Đại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn)

LỜI NÓI ĐẦU

Trong hàng Phật Giáo, có nhiều vị đại tông đồ rất đáng cho hậu thế noi gương! Một trong những vị đại tông đồ ấy là Thánh Tăng A Nan Đa một cái tên đã chiếm trọn vẹn sắc thái phổ thông trong kinh điển đạo Phật!

Khi các hàng Phật tử Bắc Tông cũng như Nam Tông, tại gia cũng như xuất gia bắt đầu tụng một thời kinh, là cái tên A Nan Đa thường được họ tuyên đọc. Chẳng hạn như: ”Ta là A Nan Đa, có nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá v.v…”

Vì vậy, viết về A Nan Đa là viết về một thánh tăng mà đời sống ”chứa” nhiều Phật Giáo nhất! A Nan Đa không những là một đại Hộ Pháp, có công lưu truyền giáo lý của đấng Toàn Giác cho đời sau, mà ông còn là một vị A La Hán Phật, bậc đã có vô số kiếp trước tái sinh và trau dồi phẩm hạnh, song song với công phu độ đời của tiền thân Phật tổ Thích Ca Mâu Ni!

Đây là cuốn sách thứ 3 trong loạt phiên dịch ra Việt ngữ, lịch sử của các đại tông đồ đức Phật. Hai cuốn đầu là ”Cuộc đời đức Xá Lợi Phất” và’Lịch Sử đức Mục Kiền Liên’ đã được tái bản và ấn tống cách đây không lâu.

Riêng cuốn ”Cuộc đời Thánh Tăng Ananda” này dịch giả xin phép vừa dịch, vừa soạn (dựa theo kinh điển Pali) để bổ túc một cách vừa phải những chỗ quá gọn, khó hiểu trong nguyên bản anh ngữ của bà Khema, vì bản anh ngữ ấy vốn cũng lại được dịch từ một tập sách tiếng Đức của học giả Hellmuth Hecker, đã biên soạn cách nay mấy mươi năm.

Dịch giả cố gắng làm tròn bổn phận của một Phật tử luôn luôn tôn thờ ba đức an lành là Phật Pháp Tăng. Trình độ hiểu biết của một phật tử tại gia như chúng tôi cho dù có được đào tạo căn bản trong các Phật học viện lớn một thời gian đi nữa, thì bao giờ cũng còn tương đối. Nếu có điều chi sơ sót ngưỡng mong chư vị cao tăng, học giả niệm tình bổ túc cho! Dịch giả xin hết lòng cảm tạ!

Cuốn sách này ra đời là nhờ sự khuyến khích phiên dịch và nhờ sự hảo tâm hùn phước ấn tống của một số Phật tử.

Dịch giả xin chân thành chia đều phần phước ”Pháp Thí” này đến tất cả quý vị ấy cũng như đến tất cả chúng sanh, nhất là đến 2 đấng sinh thành và các bậc hữu ân, thầy tổ của dịch giả.

Nguyện cầu cho dân tộc Việt Nam sớm thoát khỏi cảnh khổ, và chúng sinh, nhân loại đừng oan trái lẫn nhau.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

NGUYỄN ĐIỀU
(Paris ngày 11/8/1991)

A Nan Đa (Một kho tàng pháp bảo)

Vị đại đệ tử được nhắc đến nhiều nhất trong những kinh Phật là Tôn Giả A Nan Đa! Thánh tăng này chiếm một địa vị độc đáo trong hàng những đại tông đồ của Phật Tổ Thích Ca!

– Và với tất cả sự ngưỡng mộ tính cách độc đáo ấy mà soạn giả xin cống hiến đến chư Phật tử một sử liệu quý giá hầu làm gương cho ngày sau, xuyên qua những trang sách này!

S.G.

1. PHÚC DUYÊN LÀM NGƯỜI

Phẩm vị đặc biệt của Ananda trong hàng các đại Thanh Văn giác của đức Phật đã bắt đầu từ xa xưa, trước khi bước vào kiếp chót.

Cũng như đức Phật A Nan Đa đã giáng sinh từ cõi trời Đâu Xuất (Tusita) và sinh ra cùng ngày, đầu thai vào cùng vai cấp (hiệp sĩ) trong hoàng tộc Thích Ca, song song với đức Phật!

Hai thân phụ của đức Phật và của Ananda vốn là anh em, nên Ananda đối với đức Thế Tôn đương mhiên ở vàođịa vị huynh đệ (chú bác). A Nan Đa có ba anh em là Anuruddha, Mahànàma, Pandu và một em gái Rohini.

Anuruddaha xuất gia như Ananda, rồi nghiêm trì giới luật, phát triển trí tuệ giải thoát, đã đắc quả A La Hán, một hạng thánh tăng cao nhất. Thánh A La Hán còn được gọi là thánh Bất Lai, vị bậc thánh nầy, sau khi mạng chung sẽ được giải thoát, không còn luân hồi nữa.

Tiếp theo là Mahànàma, tuy ở ngôi cư sĩ thái tử để duy trì giòng dõi Thích Ca (Sakya), nhưng cũng đắc quả A Na Hàm (tức quả Nhất Lai, hay quả Thánh chỉ còn sinh lại một lần nữa, rồi được giải thoát!)

Trong khi đó thì Pandu, người con trai còn lại trong gia đình, không thấy sử nói đến nhiều, chỉ ghi tóm tắt rằng ông là người duy nhất sống sót của giòng họ Thích… Khi đức Phật thọ 80 tuổi.

Riêng người em gái duy nhất của A Nan Đa là Rohini, vì dư quả của tính ganh tị từ tiền kiếp, đã chịu bệnh phong ở ngoài da, trầm trọng, đêm ngày khổ sở ẩn thân trong phòng kín cho đến khi được Phật độ, chỉ rõ ấy là quả xấu của các ác nghiệp từ đời trước. Khi được Phật khai ngộ, bà cũng thành tâm tu hành, về sau đạt tới thánh quả Nhập Lưu Tu Đà Hoàn (Sotàpattimagga) tức là buớc vào con đường chắc sẽ giải thoát!

Kinh truyện chép: Rohini lúc bước vào Thánh Lưu thì tự nhiên lành bệnh, và khi mãn tuổi thọ, chết sanh vào cỏi trời thứ 33 làm vợ của Vua Trời Đế Thích (Sakka).

Theo Cùla-Vagga thuộc tạng luật (Vinaya Pitaka), quyển V III Chương 1 thì A Nan Đa được 37 tuổi, khi ông cùng Anuruddha và người anh họ Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) với một số thanh niên quỶ tộc Thích ca cùng bước vào đời sống xuất gia.

Vị thầy đã làm phép xuất gia cho A Nan Đa là Thánh A La Hán Belatthasìsa. Nhưng Pháp Bảo của bậc đạo sư này lưu lại trong tam tạng rất ít. Chúng ta chỉ tìm thấy vỏn vẹn có mấy câu kệ sau đây:

”Như thân phận làm trâu trong khổ cảnh…
Dù trên vai mang nặng một chiếc cày.
Nhưng vẫn cố tiến lên từng bước mạnh.
Thì Sa Môn xin chớ ngại gian nguy.
Ngày với tháng chính là tầm thước Thánh,
Do chiều cao công đức kẻ tu trì…”
(Thoát dịch theo Theregathà, tôn túc kệ ngôn số 16)
Chỉ bằng sự hướng dẫn đơn giản và sâu xa của bài Thánh kệ đó, mà A Nan Đà đã mỗi ngày một trở nên thuần thục trong giới luật phạm hạnh. Ông là một đệ tử chuyên cần và luôn luôn cảnh giác, nên chỉ trong mùa nhập hạ (1) đầu tiên, ông đã đạt được quả Nhập Lưu (theo Cùla Vagga VII, 1)

(1) Mùa nhập hạ là thời gian các hàng đệ tử xuất gia của đức Phật phải ở yên một chỗ để nghiêm trì giới hạnh và hành thiền. Đức Phật đã chế ra sự nhập hạ này đúng vào mùa mưa (tính theo thời tiết Ấn Độ, khoảng từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 9 dương lịch).Truyền thống nhập hạ này đã được ghi trong tạng luật và được mọi tông phái Phật giáo thi hành cho đến ngày nay. (Tuy có sự chênh lệch thời tiết mùa mưa của từng quốc gia).

Sau khi xuất gia, một hôm A Nan Đa mách với các đồng đạo rằng: ”Trưởng Lão Punna Mantàliputta đã giúp cho ông tiến bộ rất nhiều trong việc tu tập. Trưởng lão đã truyền pháp đến những tỳ khưu mới nhập môn, trong đó có ông, bằng cách giảng giải cho họ hiểu rõ: Sự cố chấp trong cái Tôi chỉ sinh ra xuyên qua hai trợ nhân là danh và sắc (tư duy và hình tướng), tức là xuyên qua hình thức và cảm nghĩ. Nói cách khác là xưyên qua trình độ của tư duy và tình trạng của sắc thái!

Để cho dễ hiểu hơn, trưởng lão Punna nêu lên một thí dụ: ” Nếu một người muốn biết mặt mũi của mình ra sao, hay muốn nhìn thấy hình dạng của chính họ như thế nào, thì họ phải soi mặt vào gương, hay trong hồ nước phẳng, lặng…! Tương tự như thế, khi năm uẩn (hay còn gọi là ngũ uẩn (1) tạo thành một con người thì nó chỉ để lộ bộ mặt chấp ngã của nó xuyên qua hình tướng và tư duy, tức là DANH và SẮC mà thôi!…’

(1) Ngũ uẩn: Sắc-uẩn, Thọ-uẩn, Tưởng-uẩn, Hành-uẩn và Thức-uẩn. Năm uẩn nầy còn được gọi chung là Danh và Sắc, Sắc gồm hai uẩn đầu (sắc, thọ). Danh gồm ba uẩn sau (Tưởng, Hành và Thức!)

Hể sáu căn (hay còn gọi là lục căn), tức Nhãn-căn, Nhĩ-căn, Tỉ-căn, Thiệt-căn, Thân-căn, và Ý-căn, trong một cá nhân mà còn cột chặt vào danh và sắc, tức là còn cấu kết với hình tướng và tư duy, thì tất nhiên có cái ”Tôi” hiện ra! – Và khi nào sáu căn không còn được nuôi dưỡng bằng hình tướng và tư duy nữa thì khi ấy cái ”Tôi” mới biến mất (theo Samyutta Nikàya 22, 83 = Tạp A-Hàm số 22, 83)

A Nan Đa suy gẫm về sự so sánh nầy một cách lập lại nhiều lần và càng lúc càng sâu sắc hơn, cho đến khi ông giác ngộ được Khổ đế (dukkhàriyasacca), lẽ vô thường (aniccà) và lý vô ngã (anattà). Rồi ông không còn để cho nội tâm của mình bị ”nuôi dưỡng” bằng năm uẩn (hay DANH và SẮC) ấy nữa, để ông bắt đàu gặt hái quả của đời sống Phạm Hạnh, trước tiên là phẩm Nhập Lưu Tu Đà Hườn!

Từ đó A Nan Đa luôn luôn tri túc và an tịnh với đời sống Sa Môn. Ông nhận rõ cái an lạc của hạnh chối bỏ (ám chỉ sự đạm bạc trong đời sống xuất gia!), và mạnh tiến trên thánh đạo, ví như một kẻ đang lênh đênh giữa biển cả, sung sướng tìm dược hướng vào bờ chỉ nương vào cái phao duy nhất là đức tính cảnh giác hay biết mình!

(Theo kinh Thập Độ Ba La Mật = Dasapàramitàsutta, thì dòng suối luân hồi chỉ bị chận lại bằng ba cái bờ, là bờ kia, bờ trên và bờ cao thượng. Các hàng xuất gia hay tại gia, mà đắc được hạnh tri túc, cắt cụt được lòng tham, tức là thấy được BỜ-KIA vậy!)

Vào những năm đầu của đời sống Sa môn, A Nan Đa đã dành hết thì giờ vào việc thanh tịnh nội tâm. Ông đã hóa mình rất dễ dàng vào cộng đồng tăng lữ, rồi ông dần dần phát triển sức mạnh tinh thần một cách nổi bật. Khi đức Thế Tôn và A Nan Đa cả hai được 55 tuổi, một hôm Phật cho triệu tập tăng chúng, và dạy rằng:

”- Trong 20 năm trường hướng dẫn cộng đồng phạm hạnh, Như Lai đã được nhiều đệ tử thay phiên thân cận, nhưng chưa có một môn đồ nào tình nguyện trọn đời hầu Phật một cách dứt khoát! Như Lai tự biết mình sẽ có một đệ tử như thế! Và giờ đây Như Lai đã 55 tuổi, xác thân nầy như cổ xe đang bước vào giai đoạn hư hại, Như Lai cảm thấy cần nói ra để vị đệ tử hầu cận ấy tự động xuất hiện!…’

Ðức Phật vừa dứt lời thì lập tức tất cả những đệ tử nhiều hạnh kiểm nhất liền tình nguyện được hầu Phật.

Nhưng đức Thế-Tôn đã hiền hòa từ chối, rồi Ngài yên lặng…

Cử chỉ ấy của Ðức Phật biểu lộ một ý nghĩa đặc biệt. Toàn thể những đệ tử có mặt liền nghĩ ngay đến A Nan Ða, lúc đó đang ngồi ở một chỗ khiêm nhượng, phía sau cả hàng trưởng-lão, và ông là người duy nhất chưa xung phong xin hầu Phật! Rồi họ đồng hướng về A Nan Ða, yêu cầu ông bước lên phía trước.

Do hạnh duyên chín mùi, qui tụ từ nhiều tiền kiếp, A Nan Ða là người duy nhất sẽ đóng vai trò vị tông đồ hầu cận Phật. Nhưng có một số phàm tăng, chưa đạt được huệ thanh tịnh, tỏ ra ngạc nhiên đặt câu hỏi ” Tại sao A Nan Ða không có mặt trong số những đệ tử đầu tiên xung phong hầu hạ Phật?!”

A Nan Ða lễ phép trả lời:

”Ðức tin của tôi vốn trao trọn vào sự sáng suốt hoàn toàn của Ðấng Toàn Giác. Tôi muốn được chiêm ngưỡng ý Phật từ bi biểu lộ! – Dù trong thâm tâm tôi vốn tình nguyện đảm nhận trách nhiệm ấy từ lâu, vì một người trong giòng họ Thích ca đóng vai hầu hạ vị Giáo chủ Phật Giáo, sẽ tránh cho người đời thuộc các giai cấp khác, bất mãn đức Phật. Nhưng tôi không dám sỗ sàng như thế, bởi Ðức Thế Tôn là bậc thấu rõ mọi nhân duyên. Chỉ có Ngài tự chọn lựa viên đệ tử hầu cận là chắc chắn nhất, và Ngài đã biểu lộ…!

Ðức Phật chờ cho A Nan Ða thốt xong, liền tuyên bố”

”A Nan Ða chính là vị đệ tử hầu Phật mà Như Lai định chọn lựa! Và kể từ nay: ngoài việc phục dịch Như Lai ra, ông còn là một trong những người đại diện Như Lai đễ ban bố giáo-lệnh!…’

A Nan Ða khi nghe đức Thế Tôn xác định địa vị của ông như thế, thay vì hãnh diện mình được Phật nâng lên hàng đại đệ tử, A Nan Ða đã khiêm tốn yêu cầu đấng Giảo Thoát chấp thuận cho ông tám điều kiện sau đây:

– Thứ nhất đức Thế Tôn đừng ưu tiên tặng y phục cho A Nan Ða.

– Thứ hai đức Bổn Sư đừng khất thực cho ông ăn.

– Thứ ba đức Bổn Sư đừng dành tịnh xá tốt cho ông ở.

– Thứ tư khi có thí chủ mời, đức Bổn Sư không ưu tiên cử ông tham dự những buổi trai tăng hay cúng dường.

– Thứ năm nếu có ai muốn thỉnh Phật thọ trai thì kẻ ấy chỉ cần nói với A Nan Ða thưa lại và Phật sẽ chấp thuận.

– Thứ sáu khi có người thiện tâm từ phương xa đến, muốn yết kiến đấng Như Lai, thì A Nan Ða có đặc ân đưa họ vào hầu Phật.

– Thứ bảy nếu A Nan Ða gặp phải thắc mắc trong Pháp Bảo thì ông được phép hỏi Phật bất cứ lúc nào.

– Thứ tám nếu đức Thế Tôn thuyết pháp trong lúc A Nan Ða vắng mặt, thì ông xin đúc Bổn Sư lập lại bài Pháp ấy cho ông nghe.

Rồi ông trình bày lý do tám điều trên như sau:

Bốn điều yêu cầu từ thứ nhất đến thứ tư sẽ tránh cho các hạng phàm phu tục tử vị nghị rằng ”A Nan Ða tình nguyện hầu cận Phật chỉ vì lợi lộc!”

Còn bốn điều yêu cầu tiếp theo (từ thứ năm đến thứ tám) sẽ đánh tan sự phê-phán của người đời: ” A Nan Ða tối ngày lo hầu hạ Phật và thay thế Phật tiếp xúc với mọi người, còn đâu thì giờ để học đạo, tu hành, phát triển hạnh giải thóat…?!”

Ðức Phật dĩ nhiên đã chấp thuận tám điều yêu cầu đáng khen ấy, bởi nó hoàn toàn phù hợp với nết hạnh của một vị sa môn. Và kể từ đó, A Nan Ða luôn luôn là bạn đồng hành, là người hầu cận và là kẻ tiếp trợ của đức Thế Tôn trong suốt hai mươi lăm năm dài phạm hạnh. Cái khoảng 25 năm dài, mà danh thơm cũng như các đức tính tinh tấn, nhẫn nại và bền bĩ trui rèn nội tâm của A Nan Ða, đã không suy giảm, hao sụt, so với 18 năm đầu, khi ông còn là một sa môn vô danh, chưa ai biết đến.

Và A Nan Ða đã tự trào bằng những câu kệ sau đây:

‘Hai mươi lăm năm hầu bên chân Phật,
Học lên cao chân lý sáng như gương!
Một cuôc sống không THAM LAM khao khát,
Diệt vô minh Pháp Phật diệu vô lường!’
(Phỏng dịch theo Theragàtha v.1039 = Tôn túc kệ ngôn số 1039)
Rồi trong 2 đoạn kế của bài kệ nầy, A Nan Ða cũng dùng một mạch văn tương tự, để diễn tả sự an tịnh vô song của một bậc sa môn đã diệt được lòng SÂN HẬN và SI MÊ!

Quý vị đọc giã có thể đọc lại bốn câu thơ trên, chỉ thay thế bốn chữ ” THAM LAM, KHAO KHÁT” bằng bốn chữ ”GIẬN HỜN, HUNG ÁC”, hoặc thay thế 4 chữ ấy bằng 4 chữ ”SI MÊ, LẦM LẠC” thì quý vị sẽ có ngay 2 bài kệ tiếp theo như sau:

”Hai mươi lăm năm hầu bên chân Phật,
Học lên cao chân lý sáng như gương!
Một cuôc sống không GIẬN HỜN, hung ác…
Diệt vô minh Pháp Phật diệu vô lường!”

”Hai mươi lăm năm hầu bên chân Phật,
Học lên cao chân lý sáng như gương!
Một cuôc sống không SI MÊ, lầm lạc,
Diệt vô minh Pháp Phật diệu vô lường!”
Ý chính của bài kệ trên đây cũng như những bài kệ tiếp theo trong Tôn túc kinh (Theragàtha) là A Nan Ða đã ca ngợi hạnh phúc của bất cứ ai noi gương Phật mà dứt được tham lam sân hận và si mê!

Mặt khác, ”hai mươi lăm năm” được nêu trong kệ ngôn vừa nhắc, chỉ diễn tả cái an lạc duy nhất trong thời gian ông hầu hạ Ðức Phật, chứ không phải ám chỉ phẩm cách của một đời ông làm sa môn.

Trong suốt 25 năm ấy, tuy ông vẫn còn phàm tính! – Nói theo kinh điển: ông là người cần học: Sekha (1), nhưng Ananda đã có nhiều lần tâm tư được lìa khỏi tham lam và sân hận, nên ông đã tế nhị thốt lên rằng: ” Dù chưa đắc quả giải thoát, kẻ nào được hầu hạ một vị Phật, kẻ ấy cũng không bị Khổ nảo vì tham lam và sân hận!”

Chú ý: Một bậc Tu ñà Hườn là bậc còn nhiều phàm tính. Bậc này chỉ diệt trừ được ngã chấp, hoài nghi và mê tín mà thôi.

Quả thật Ananda là người đã hưởng được quả lành của công đức hầu Phật!

Còn những kệ ngôn liên quan đến những thiện pháp khác trong Tôn túc kinh (Theragàthà) của A Nan Ða, mặc dù không được trích dẫn ra đây, nhưng nói chung nội dung tất cả để ca ngợi các phẩm cách cao thượng, mà ông với tư cách là bạn đồng hành của đức Phật lúc tại tiền, đã chứng nghiệm!

Riêng đoạn đời Ananda đã đắc quả A La Hán, sau khi Phật Nhập Diệt ra sao, sẽ xin nóí đến trong những phần tiếp theo.

(1): Sekhà: Cần – học, chữ Pali: Sekhà, có nghĩa là người còn học hỏi trong bốn chân lý giải thoát ( Tứ Diệu Ðế)! nhưng nhiều chỗ thuộc Tam Tạng kinh điển Pali thì từ ngữ SEKHÀ ám chỉ ba bậc thánh chưa hoàn toàn giải thoát là Tu Ðà Hườn, Tư Ðà Hàm và A Na Hàm! – Còn bậc thánh cao nhất đã được hoàn toàn giải thoát A La Hán được Phật gọi là bậc ”Hết Học” Asekhà. Nhiều dịch giả Phật Giáo Việt Nam còn dịch Sekhà là Hữu Học và Asekhà là Vô Học! Soạn giả xin mạn phép chưa vào đây để quý vị tiện nghiên cứu!

2. A NAN ÐA, MỘT CÁI TÊN QUEN THUỘC
Tên Thánh A Nan Ða thường được tuyên tụng trong phẩm mở đầu những kinh điển Phật giáo là một điều mà các hàng Phật tử ai cũng biết! Chẳng hạng như ” Ta là A Nan Ðà có nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Thế Tôn ngự tại v.v…”

Khi đức Phật còn sinh tiền, Ngài đã chính thức nhìn nhận phẩm vị thay mặt Ngài một cách xứng đáng, của A Nan Ða, bằng cách cho phép ông đi thuyết pháp ở chỗ nầy, hay đến nói đạo ở chỗ kia, với những đề tài mà Phật đã dặn trước.

Do đó, sau khi Ðức Phật Viên Tịch, các tông đồ chưa Nhập Diệt vẫn xem những điều A Nan Ða thuật lại như Kim Ngôn của Ðức Phật.

Tuy cũng có một số các đại Tông đồ khác được đức Phật cho phép làm đại diện thuyết pháp, tiêu biểu nhất là Xá Lợi Phất (Sàriputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna), (Xin xem 2 cuốn “Cuộc đời Xá Lợi Phất” và “Lịch Sử đức Mục Kiền Liên”! – Cùng một dịch giả) (Theo Anguttaranikàya X 115 = Tăng Nhất A Hàm số X 115) nhưng A Nan Ða là người được thừa hưởng Phật Pháp nhiều nhất, và ông đã có khả năng thuật lại hầu hết những bài Pháp dài nhất của đức Phật. Trong khi đó thì các vị đại Tông Ðồ kia, thường chỉ thay thế Phật, diển giảng lại những bài Pháp ngắn hay trung bình!

Và bên cạnh cái phẩm vị tương đương với những đại Tông Ðồ cở Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên ấy, A Nan Ða còn là một đệ tử ưu tú, có nhiều phúc hạnh giống đức Phật Thích Ca nhất! Chính đức Phật lúc sinh tiền, trong nhiều trường hợp, cũng đã đề cao A Nan Ða như vậy!

Chẳng hạn như Phật từng nói trước các hàng Tăng chúng rằng:”Quốc Vương Pasenadi, sau khi được nghe pháp của A Nan Ða đã trở thành vị vua anh minh, thiện tri thức, như ông được chính Như Lai cảm hóa vậy! ( Theo Majjhimanikayà 88: Trung A Hàm số 88).

Chỗ khác, Phật cũng nói:”Khi tất cả các hàng quí tộc, Bà La Môn, thường dân và đạo sĩ vui sướng vì được yết kiến một vị Chuyển Luân Thánh Vương như thế nào, thì chư sa môn, tỳ khưu, tỳ khưu ni, thiện nam và tín nữ cũng tràn ngập hân hoan, khi nhìn thấy A Nan Ða như thế ấy!”.

Hoặc một đoạn khác Phật nói:”Khi các hàng Phật tử nói trên đến thăm, họ chỉ cần nhìn thấy dung mạo của A Nan Ða là đủ rồi. Nếu A Nan Ða rảnh tay thuyết Pháp cho họ nghe thì càng hay, còn giả sử ông bận rộn, không chào hỏi họ một tiếng, họ cũng hoàn toàn hoan hỉ, không bao giờ phiền trách! Ấy chính là cái phúc hạnh của một bậc sắp bước vào ngưỡng cửa Giải Thoát! “(Theo Digha Nikàya 16: Trường A Hàm số 16).

Ngày kia, nhân một cư sĩ hỏi đức Bổn-Sư “làm thế nào để một Phật tử, sau khi cúng dường đứng đắn Phật Bảo và Tăng Bảo, có thể cúng dường xứng đáng Pháp Bảo?!” thì một lần nữa Ðức Phật đã nhắc đến A Nan Ða trong câu trả lời:

“Nầy cư sĩ tại gia! Nếu con muốn cúng dường Pháp Bảo, hãy đến cúng dường A Nan Ða, vì ông là người gìn giữ kho tàng Pháp Bảo!”

Tức thì vị cư sĩ ấy liền mời A Nan Ða về nhà trai tăng và cúng dường đến ông một lá Y rất quí giá.

Lá Y ấy về sau A Nan Ða đem về dâng lại cho Trưởng Lão Xá Lợi Phất (Sàrìputta) vì ông nghĩ rằng: ” chính đại huynh Xá Lợi Phất mới là người thông hiểu các Pháp!”

Nhưng một cách tương tự, đến phiên Trưởng Lão Xá Lợi Phất cũng nghĩ rằng:”Chính đức Phật mới là nguyên nhân của kho tàng Pháp Bảo! “. Rồi Xá Lợi Phất lại đem lá Y quí báu ấy dâng đến đức Thế Tôn. (Theo Jàtaka-Sutta 296 = Túc Sinh truyện số 296).

Lại một lần khác, đức Phật đã đề cao A Nan Ða sau khi vị đại đệ tử nầy vừa trả lời xong một câu hỏi của đức Phật, rồi đi nơi khác. Ðức Thế Tôn tuyên bố trước một số tăng chúng:

“Nầy chư tỳ khưu! A Nan Ða chính là người đang tiến lên những trình độ Phật giáo cao hơn! Và ngoài ông ra, khó mà tìm được một sa môn có nhiều trí nhớ như vậy! (Theo Anguttara Nikàya III. 78 = Tăng Nhất A Hàm số III.78)

Trong Tăng Nhất A Hàm quyển III, đoạn 72 còn ghi rằng: có một cư sĩ ngoại đạo nghe A Nan Ða thuyết pháp, rồi quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cư sĩ ấy khi hiểu rõ chân lý đã mừng rỡ khen ngợi: ” Thật là Thánh đạo! Thật là chân nhân! Sa môn A Nan Ða đã không đề cao Pháp học của mình, cũng không xuyên tạc giáo lý của kẻ khác! Ông chỉ biết ngay thẳng diễn tả những điều chân thật, mà ý nghĩa nào dù tiềm ẩn cao xa nhất, ông cũng không bỏ qua!”

Vua Pasenadi, sau lần thứ hai cùng với hoàng tử Kosala, nghe A Nan Ða thuyết pháp, đã ca ngợi:

-” Hoàng Thân, nếu được thấm nhuần Pháp Bảo của sa môn A Nan Ða, là đi vào chân lý cao thượng! Vì lời lẽ của A Nan Ða là lời lẽ đáng kính đáng yêu và ôn hòa đối với tất cả mọi người! Lời lẽ như thế không thể phát ra từ cửa miệng của một người đi ngoài thánh đạo! ” Theo Majjhima Nikàya 90 = Trung A Hàm số 90)

Thông thường, khi một người được quá nhiều khen ngợi, quá nhiều thiện cảm, và quá nhiều đặc quyền như vậy, thì người sẽ phải gặp lắm chuyện ganh tị, phàn nàn, bất mãn một cách vô cớ của một thiểu số ác tâm. Nhưng A Nan Ða đã không gặp trường hợp ấy. Ông không có kẻ thù, cũng chẳng bị ai ngầm ghét. Ưu điểm độc đáo nầy, thực ra đã do nhân lành từ nhiều kiếp trước. Hay nói cách khác: “Hạnh-phúc không có kẻ thù” của A Nan Ða vốn không chỉ trong kiếp nầy, mà còn đã do ông tạo trong nhiều kiếp trước!

A Nan Ða sở dĩ được đề cao, vì ông biết hạ mình, dâng trọn cuộc đời cho Pháp Bảo. Rồi mọi danh dự cũng không làm cho ông trở thành kiêu căng, ngã mạn! Ông tự nhủ rằng: Tất cả những phẩm hạnh mà ông gặt hái được là nhờ ơn đức của Phật. Bởi thuần hậu như thế, nên tự cao, ngã mạn chẳng thể nào xuất hiện trong ông! Và kẻ không tự cao là kẻ không có kẻ thù, rồi cũng không bị ai ganh ghét!

Nếu một người chỉ biết lo tu kín, tránh xa mọi tiếp xúc với xã hội bên ngoài, và không có kẻ thù, thì ấy là đương nhiên. Chẳng hạn như trường hợp của Anuruddha, anh ruột A Nan Ða! (Sử chép: sa môn Anuruddha, sau khi xuất gia dành cả ngày lẫn đêm cho việc tu hành, không tiếp xúc với bất cứ một ai ngoài đức Phật).

Nhưng A Nan Ða là người hàng ngày phải đối xử với mọi hạng người, phải nghe, thấy và biết đủ mọi vấn đề…, mà ông không bị ai ganh ghét, không bị kẻ khác thù hằn, không bị xung đột trong xã hội, không bị người ta chú ý, theo dõi… thì quả thật là điều tưởng như ông có phép lạ!

Tuy A Nan Ða chăm chỉ và thuần hậu như vậy, nhưng thỉnh thoảng ông cũng bị đức Phật (hay những đại Trưởng Lão) khiển trách! Sự quở trách ấy hoàn toàn khác với sự chỉ trích thông thường, vì khi các bậc chân thật nhắc nhở là khi ông được kích thích vào giác tâm, để cho đức hạnh cao thượng hơn được un đúc, và từ đó, sức mạnh rèn luyện nội tâm mới được vững chắc! Ai biết quý trọng những sự nhắc nhỡ như thế là kẻ dễ trở nên thanh tịnh, và đời sống của họ tự nhiên được mọi người tôn sùng!

Phần nhiều các trường hợp A Nan Ða bị Phật quở trách, đều nhằm vào cách giao tế, lễ nghi xã hội, hoặc kỹ luật cộng đồng, hơn là ông bị quở trách vì tâm tánh không cao thượng, hoặc vì ông chảng hiểu thông Pháp bảo.

Xin kể một vài trường hợp như sau:

Một lần nọ đức Phật bị bệnh rát xót trong bao tử, A Nan Ða được người mách ” cháo nếp sẽ giúp cho Phật khỏi bệnh ấy”, ông bèn kiếm vật liệu nấu cháo cho Phật.

Ðức Thế Tôn sau đó đã quở trách ông rằng:

“Những hàng đạo sĩ, những hàng sa môn dùng vật liệu nấu ăn trong nơi tu hành là một điều không thích hợp!”

Rồi Ðức Phật chế điều luật: Một tỳ khưu, sẽ phạm tội Ưng xả đối trị, nếu tỳ khưu ấy tự nấu ăn! (Theo Mahàvagga số VI, 17, trong Tạng Luật)

Từ đó về sau, A Nan Ða ghi nhớ điều luật ấy, và nghiêm giữ một cách tinh tấn, lòng tự nhủ rằng: “Ðiều răng của Ðức Phật là nền tảng của phạm hạnh!”

Một hôm A Nan Ða đi khất thực quên mặc Y Tăng Già Lê, được một đồng đạo nhắc khéo “Phật đã phê chuẩn bậc xuất gia phải luôn luôn vận đủ tam Y, khi đi vào làng xóm!”. A Nan Ða liền vui vẻ cám ơn vị đạo hữu ấy, và phân trần rằng:”Bần tăng chỉ quên thôi, chứ không cố ý bất tuân phép Phật!”. Rồi ông ngoan ngoãn đi mặc Y Tăng Già Lê. Và kể từ đó, mhững phép tắc về cách vận y phục cho trang nghiêm của một tỳ khưu khi ra khỏi tịnh xá, do đức Phật phê chuẩn, đã được ông thi hành từng chi tiết! (Theo Mahàvagga VIII, 23 = Ðại Phẩm Tạng Luật số VIII, 23).

Thuật lại giai thoại nầy để cho các hàng Phật Tử, tại gia cũng như xuất gia, thấy rằng: Một bậc có nhiều trí nhớ như A Nan Ða, bậc và kiếp chót là kiếp sẽ nhập vào thánh lưu như A Nan Ða, mà còn có thể sơ sót vài oai nghi trong đời sống phạm hạnh, huống chi phàm nhân như chúng ta, lại không luôn luôn cảnh giác và biết mình!”

Bởi vậy, đức Thế Tôn đã nhiều lần lưu ý chư tỳ khưu: ” Các con chớ coi thường các hành vi nhỏ nhặt, nhất là những oai nghi hằng ngày của đời sống xuất gia! Bởi vì chính những thiện hạnh nhỏ nhặt ấy sẽ là nền tảng cho mọi cố gắng tinh thần, và thánh tâm sau nầy! Luật lệ vốn mang lại những đức hạnh hoàn toàn. Và đức hạnh hoàn toàn sẽ đưa đến tính khiêm nhượng và trí tuệ giải thoát!”

Trưởng Lão Mahàkassapa (Ðại Ca Diếp) cũng từng quở trách A Nan Ða, như trong hai trường hợp sau đây:

Trưởng Lão nói: ” A Nan Ða là người đã hướng dẫn vở lòng các đệ tử trẻ tuổi nầy. Tại sao ông không tập cho họ cách thu thúc lục căn, tập cho họ phương pháp chế ngự sự ăn uống, và dạy cho họ nết tinh tấn biết mình?!”

“- Ông đã vô tình làm hỏng tuổi trẻ và làm hư niềm tin của các tân tỳ khưu, đến độ phải bỏ cuộc! Phải chăng A Nan Ðà, vì còn trẻ nên thiếu kinh nghiệm?!” (Khi ấy Trưởng Lão Ðại Ca Diếp đã ngoài 80 tuổi, và A Nan Ða chỉ 50 tuổi, nên Trưởng Lão gọi ông còn trẻ”!). (Theo Samyutta Nikàya 18.11 = Tập A Hàm số 18.11).

Vì còn là Phàm tăng, nên trước sự khiển trách nặng nề nầy, A Nan Ða đã vui vẻ trả lời rằng:

“Tuy trên đầu bần tăng đã hai thứ tóc, bần tăng vẫn hết lòng phục vụ tăng già như một thanh niên, nên Trưởng Lão Ca Diếp cho bần Tăng là còn trẻ, thiếu kinh nghiệm?!”.

Ở đây, chúng ta có thể hiểu rằng: A Nan Ða đã quá tin tưởng vào sự chân thành phục vụ giáo hội của ông, và đã coi thường tính ham mê đời sống nhục dục của 30 tân đệ tử! Ông đã không biện minh được trách nhiệm không làm tròn của mình trước sự phê phán của một vị Trưởng Lão! Chúng ta chớ quên rằng khi ấy A Nan Ða chưa đắc quả A La Hán, nên trong ông vẫn còn ít nhiều phiền não thô thiển ấy bất chợt bộc phát, chứ không phải do bản tánh cứng đầu cố ý phạm thượng!

Trường hợp quở rách thứ hai của Ðại Trưởng Lão (Mahà Kassapa) đến A Nan Ða thuộc về một bối cảnh khác:

Số là lần nọ A Nan Ða yêu cầu Trưởng Lão cùng đi với ông đến dạy đạo tại một nữ tu viện. Sau một phút chần chờ, Trưởng Lão Ca Diếp đã nhận lời. Nhưng khi thuyết pháp xong, một tỳ khưu ni ương nghạnh trong lòng còn chứa dục tình đã bình phẩm: “Trưởng Lão Ca Diếp cứ dành nói pháp một mình, không để cho tôn giả A Nan Ða, là kẻ đẹp trai, hiểu biết rộng, thốt ra được một lời!”. – Tỳ khưu ni ấy còn ví dụ Trưởng Lão như người bán kim, cứ ca tụng cây kim trước người biết chế tạo ra nó! (ám chỉ A Nan Ða).

Trên đường về, A Nan Ða hiểu ý, bèn yêu cầu Trưởng Lão Ðại Ca Diếp tha lỗi cho tỳ khưu ni kia. Nhưng Trưởng Lão đã quở trách rằng:

“Nầy A Nan Ða! Sao ông không nhớ thu thú lục căn! Ông cứ để những điều khen chê ảnh hưởng đến hạnh kiểm của mình?! (Theo Samyutta Nikàya 16.10 = Tạp A-Hàm số 16.10).

Ðiều nầy có nghĩa là Trưởng Lão Ðại Ca Diếp đã khéo léo quở trách A Nan Ða quá sốt sắng mang lợi ích tinh thần cho Ni giới, mà coi thường sự nguy hiểm luyến ái riêng tư, không phải từ thân A Nan Ða, mà từ phía một người khác: (ám chỉ của một tỳ khưu ni!). Sự quở trách nầy về sau đã giúp ích cho A Nan Ða rất nhiều!

Dẫu sao, hai trường hợp A Nan Ða được Trưởng Lão Ðại Ca Diếp nhắc nhở nói trên, vẫn không làm cho những nhà nghiên cứu đời sống của các đại tông đồ đức Phật hiểu lầm. Trái lại, xuyên qua những lần quở trách ấy, Trưởng Lão Ðại Ca Diếp đã chứng minh được lòng từ bi của mình, cũng như A Nan Ða đã biểu lộ đức tính luôn luôn biết phục thiện của ông. Vì cả hai vị cao đồ nầy trước sau vốn giao hảo với nhau rất thân mật. Có thể nói họ là hai vị danh tăng tuy khá chênh lệch tuổi tác, nhưng tương đắc nhất trong hàng thinh văn đệ tử Phật.

Một lần khác, A Nan Ða bị chỉ trích vì câu chuyện sau đây:

A Nan Ða hỏi Phật ” – Tiếng nói của đức Thế Tôn vang vào vũ trụ sâu xa như thế nào?!”

Ðức Phật trả lời rằng: “Tiếng nói của một bậc Toàn Giác thì không đo lường được, có thể nghe thấu vào mọi cõi Ðại Thiên thế giới, có thể chạm tận tai tất cả Phạm Thiên (1) và bao trùm Tam Giới! Tiếng nói ấy còn thấm nhuần cả đến muôn loài vạn vật, từ kiếp sống ngắn nhất cho đến kiếp sống dài nhất, cở tuổi thọ của mặt trời!”

(1) Brahma = Brahma Deva – Trời Phạm Thiên, một cõi mà sự tịnh lạc tương đương với đệ Tứ Thiền trong trình độ tâm linh của Phật giáo

A Nan Ða nghe Phật trả lời như vậy, bèn hoan hỉ, tưởng như lời Phật lúc nào cũng văng vẳng mọi nơi, không đâu không có âm thanh Giác Ngộ, nên ông ca tụng:

“- Thật là may mắn cho tôi! Thật là hữu hạnh cho tôi, được làm đệ tử hầu cận cho một bậc Toàn Năng, Toàn Giác!”.

Tỳ Khưu Udàyi nghe A Nan Ða tự mãn bằng những lời tán than như thế, liền phê bình:

” Nầy A Nan Ða! Ca ngợi sự toàn năng của đức Bổn Sư thì có ích lợi gì cho mình! – Nếu mình không tu hành Thánh Thiện và Toàn Giác?”.

Rồi chính từ sự chỉ trích đó, tỳ khưu Udàyi đã bàn rộng vấn đề ra. Chẳng hạn như ông phê bình A Nan Ða chỉ nhìn vào thân Phật rồi thỏa mãn với tha lực, không chịu trao dồi thân khẩu ý, để tự mình được trong sạch giải thoát, được trở thành toàn năng! Đức Phật nghe câu chuyện ấy, bèn giải oan cho A Nan Ða như sau:

“- Nầy Udàyi! Không phải như thế đâu! Giả sử như A Nan Ða hết tuổi thọ ngay bây giờ, và dù chưa đắc Thánh quả cao hơn Tu Ðà Hườn, A Nan Ða vẫn sinh làm vua trời đến bảy lần, nhờ kết quả tu sửa tâm tính từ những kiếp trước của ông, hoặc ông sẽ sinh làm vua xứ nầy đến bảy lần, chứ không còn bị đọa xuống bốn đường ác đạo nữa! Nầy Udàyi! Và đây là kiếp chót của A Nan Ða, để ông được giải thoát! (Theo Anguttara Nikàya III, 80 = Tăng Nhất A hàm số III, 80).

Đức Phật đã tiên đoán về lịch trình tiến hoá của A Nan Ða như thế, trước mặt vị đại đệ tử hầu cận nầy, đủ chứng minh rằng: Niềm tin của đức Bổn sư dành cho A Nan Ða quả thật chắc chắn. Ngài cũng biết rõ rằng các lời lẽ ấy sẽ không làm cho A Nan Ða ỷ lại hay chễnh mãng trong việc tu trì.

Vã, Phật thốt ra mấy lời đó vốn có lý do: Thứ nhất A Nan Ða là người thường mặc cảm kém phúc đức, và còn lâu lắm ông mới được giải thoát! Thứ hai, sự chỉ trích càng làm mặc cảm của ông gia tăng! Thứ ba, bằng một cách gián tiếp, đức Phật cần bênh cực A Nan Ða, để sau mỗi lần bị chỉ trích, tâm tư ông khỏi bị lo âu, đồng thời nhân dịp nầy Phật khuyến khích A Nan Ða nên cố gắng hơn nữa, vì Thánh Quả Giải Thoát sẽ đến với ông nội trong kiếp ấy!

Ðức Thế Tôn dành các lời tiên đoán như thế cho những ai luôn luôn cố gắng mà vẫn sợ mình, còn bị tiếp tục luân hồi, hơn là cho những kẻ dễ duôi và ỷ lại!

Nhưng trong câu chuyện sau đây, đức Phật đã nhắm vào tâm thức của A Nan Ða, để khiển trách và chế định một điều luật:

Số là lần nọ, đức Bổn Sư ra lệnh cho A Nan Ða trông nom phân phối vải, và may y phục cho các hàng tăng chúng. A Nan Ða đã thực hiện công việc nầy một cách tốt đẹp, nên được đức Phật khen ngượi trước tăng chúng rằng: “A Nan Ða là người khéo léo, ngay cả trong lãnh vực khâu vá! Một sa môn đủ đức hạnh là người biết tự khâu vá mảnh y của mình, không để chỉ viềng bung ra, và không bao giờ bị chỉ trích là phí phạm vật dâng cúng của các hàng thiện nam tín nữ!”. (Theo Mahàvagga VIII 12 = Ðại Phẩm VIII 12).

Sau đó một thời gian, khi Ðức Phật và chư đệ tử ngụ gần thủ đô Ca Tỳ La Vệ. Một hôm đức Bổn Sư thấy trong tịnh xá có rất nhiều tọa cụ, bền hỏi A Nan Ða, phải chăng nơi ấy đang có đông tỳ khưu hội họp.

A Nan Ða liền xác nhận, và ông còn trình rõ với đức Thế Tôn rằng:

– Bạch đức Bổn Sư! Vừa rồi tăng đã cùng nhau vá y! đức Bổn

Sư đã chẳng khen ngợi: ” Một sa môn xứng đáng là người biết bảo trì lấy lá Y của mình, tránh phí phạm vãi của đàn na tín thí?” – Nên đệ tử đã tổ chức một buổi vá Y hội để có thể chỉ cho các đồng đạo phương pháp khâu vá!”

Rồi A Nan Ða thuật lại sự sinh họat cùng nhau khâu y vui vẻ như thế nào cho đức Phật nghe. Ông đâu biết rằng: Mỗi lần họp nhau khâu Y như người thế tục đó, sự tinh tấn tu trì của các hàng tỳ khưu đã giảm xuống rất nhiều, vì cái tính ngồi chung làm việc thì sinh ra nói chuyện nhảm nhí!

Do đó đức Phật đã chế ra điều răn, chấm dứt tật xấu cho các hàng tăng lữ, hội họp làm việc chung giống như người thế tục, như sau:

“- Một tỳ khưu, đáng bị chỉ trích, là người ưa thích các cuộc hội họp như ngoài đời, hoặc sung sướng khi được tụm năm, tụm bảy, để vừa làm việc, vừa nói chuyện! Hạng tỳ khưu như thế sẽ không thế nào tìm thấy sự bình an trong hạnh xuất gia, không thể nào nhận ra đức thanh tịnh trong sự sống đơn độc, không thể nào trở nên an nhàn trong nơi yên lặng, và không thể nào thực hiện thiện hạnh tỉnh thức biết mình!”

“- Kẻ nào ham thích trong các cuộc tụ họp phù phiếm, người ấy sẽ không tìm ra sự an lạc chân chánh, vì trạng thái an lạc chân chánh chỉ phát sanh, khi tách rời khỏi mọi tính ham thích tụ tập! – Ngay cả những người đã an trú trong thiền định, mà khi bị “tính thỏa thích trong tụ họp” lôi kéo, kẻ ấy về sau cũng sẽ bị chi phối, không thể hoàn toàn điều khiển tâm an trụ được!”

– Còn giả sử thiền pháp đắc được của họ, có tồn tại trong một thời gian, thì ấy chỉ là sự vận dụng để biểu dương chứ không phải là chính quả an trụ trong thiền định! Cho nên những người hành thiền chung một chỗ (ý nói chung một tịnh cốc hay một tịnh xá) thường sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đạt đến thánh quả giải thoát, vì tu thiền chung loại ấy là tu thiền còn tùy thuộc vaò những điều kiện thế gian, nhất là điều kiện phải có người tu thiền chung với mình!

Bởi thế, đức Phật, sau khi giảng giải về sự tai hại của tính thích tụ họp, Ngài bèn kết luận:

“- Không có một hình thức ham thích hội họp nào mà không gây ra khổ não (dukkha)! (-Dukkha ám chỉ tất cả các trạng thái bất toại nguyện từ thô kệch đến vi tế!). Bởi vì xuyên qua luật vô thường ( anicca): Hễ có hợp thì phải có tan. Nếu “Hợp” làm cho sung sướng, thì “Tan” (chia tay) sẽ làm cho phiền não!. Ðối với sự chia tay trong một thời gian ngắn, vì phiền não rất vi tế, khó nhận thấy, nên người ta coi thường. Nhưng đối với những sự chia tay lâu dài, hay chia tay vĩnh viễn, phiền não chính là sự thống khổ, có thể làm cho những phần tử chia tay rủi hết tuổi thọ rơi vào trong bốn đường ác đạo! Thậm chí tới cõi trời cao nất là cõi Phạm Thiên mà sự chia tay cũng làm cho các hàng Thiên chúng ở cõi nầy buồn bã, mất hết hào quang!).

-Vô thường là một trong ba nguyên tắc bất di bất dịch của Pháp Lý nhà Phật vậy!

Sau đó, đức Bổn Sư còn chỉ rõ một phương pháp thực tiễn, mà Ngài chỉ dành để hướng dẫn A Nan Ða! Phật dạy ông rằng:

“- Vì bổn phận phải hầu Phật và phải tiếp xúc với đủ mọi hạng người (ý nói có hợp có tan!), nên ông cần luôn luôn thực hành chi thứ 7 của Bát Chánh Ðạo là Chánh Niệm. Lấy nó làm căn bản để phát triển 7 chi còn lại là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn và Chánh Ðịnh!”

Cuộc Đời Thánh Tăng Ananda (phần 2)

Ðức Phật dùng lời dạy nầy, bởi vì A Nan Ða có bẩm tính trụ tâm rất nhanh, và mặc dù ông chưa nhập cao vào thánh giới.

Ðức Phật dùng lời dạy nầy, bởi vì A Nan Ða có bẩm tính trụ tâm rất nhanh, và mặc dù ông chưa nhập cao vào thánh giới, nhưng bản chất định tâm tự nhiên, cộng với sự thấm nhuần Pháp Bảo của ông, đã khiến ông phát ra một số hành vi cử chỉ, giống như một bậc thánh.

Ðức Phật cũng biết rằng: Ðối với A Nan Ða, ngài chỉ cần nêu lên những pháp kích thích là A Nan Ða có thể bước vào Chánh Ðịnh. Do đó, mấy lời dạy có liên quan đến Bát Chánh Ðạo nói trên, chính là để hướng dẫn ông, áp dụng Pháp Bảo nào thích hợp nhất, từ đó ông có thể hành trì tròn đủ Bác Chánh Ðạo, mà không có một pháp nào làm cho ông cố chấp!

Ðối với những người tầm thường thì Chánh Kiến là bước đầu, là căn bản của Bác Chánh Ðạo! Rồi khi thân khẩu ý được thuần thục xuyên qua Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, họ mới bắt đầu sử dụng CHÁNH NIỆM để giữ vững con tâm bước vào Chánh Ðịnh, mà không thể trở thành cố chấp, khi đạt đến bậc thiền!

Nhưng đối với A Nan Ða, một người có trí nhớ phi thường, một người có bộ óc chứa nỗi hầu hết tám mươi bốn ngàn Pháp môn của đức Phật, thì Chánh Niệm là cánh cửa mở đầu, hễ ông bước vào (thuần thục) là ông có thể đắc được các Pháp Phá Chấp, vượt lên trên tất cả mọi khái niệm, mọi hình thức hay danh xưng, mọi phẩm cách hay lằn mức tận cùng!

Ngoài ra, đức Phật còn kích thích tính từ bi quảng đại của A Nan Ða, nhất là lòng từ ái đối với đức Bổn Sư, và Ngài xác nhận rằng:

“Lòng từ ái ấy không phải chỉ phát hiện với điều kiện A Nan Ða trở thành đệ tử hầu cận của Phật!”

Chúng ta có thể nhận thấy ở đây rằng, đức Bổn Sư đã đặc biệt hướng dẫn A Nan Ða, bước vào Thánh Ðạo, bằng hai phương diện Công Pháp và Biệt Pháp, hầu giúp ông ta chặt đứt mọi ràng buộc thế-gian, dứt khoát một lần sau cùng.

Do đó, khi kết luận, Ðức Phật đã nhắc lại mối quan hệ giữa Ngài và ông (tức Biệt Pháp hay Biệt Nghiệp!) để củng cố niệm lực của ông như sau:

Nầy A Nan Ða! Ðã từ nhiều kiếp quá khứ và ngay cả bây giờ, giữa ông và Như Lai chỉ có một tình bạn, tình thân thuộc và tình thầy trò, chứ không bao giờ có ác nghiệp hiềm thù hay ghét bỏ! Mối quan hệ vô lượng ấy đã làm cho chúng ta hưởng được phúc lành trong vô số kiếp xưa thì kiếp chót phẩm hạnh giải thoát của ông, không thể nào tách rời đạo quả tuyệt đối của Như Lai được!

” Nầy A Nan Ða! Nếu ví Như Lai là người thợ gốm và ông là tác phẩm, thì người thợ gốm ấy (ám chỉ đức Phật) đang hoàn toàn thỏa mãn vì đã đem hết khả năng của mình để nắn ra một tác phẩm vừa ý nhất (ý nói đức Phật không xem A Nan Ða như một đệ tử mà thánh tâm chưa được vững chắc!)

Và bằng những lời giáo huấn, khuyến khích và “xác nhận đạo quả sẽ đến” như thế, đức Phật đã cũng cố niềm tin và niệm lực của A Nan Ða, cho đến phút chót, trước khi Ngài nhập Niết Bàn!

Giai thoại về tiền kiếp sau đây sẽ làm cho chúng ta nhận thức mối quan hệ giữa đức Phật và A Nan Ða một cách sâu sắc hơn:

Ðó là câu chuyện số 40 trong Túc-Sinh truyện:

Khi ấy tiền thân A Nan Ða làm vua, đã lìa bỏ ngôi báu, để cùng với đức Bồ Tát (tiền thân Phật) xuất gia sống đời sống đạo sĩ. Giống như Thái tử Sĩ Ðạt Ta đã làm trong kiếp chót ở vườn Lộc Dã, trước khi thành Phật vậy!

Một hôm đức Bồ Tát biết rằng bạn mình (tức tiền thân A Nan Ða), vì gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thực phẩm, đã để dành muối nêm thức ăn. Một hành động trái ngược với luật tu trì của các hàng đạo sĩ.

Ðức Bồ Tát liền khiển trách rằng:

“Nầy bạn! Bạn đã can đảm buông bỏ cả ngôi báu, buông bỏ tất cả sự giàu sang của một vương quốc, tại sao bây giờ bạn lại bắt đầu để dành từng hạt muối?!”

Lời chỉ trích nầy đã làn cho tiền thân A Nan Ða buồn lòng. Ông trả lời rằng:

“Nầy đạo hữu! Những lời phê bình của đạo hữu đã làm cho tôi khổ tâm rất nhiều. Các lời chỉ trích ấy khiến tôi cảm thấy chua chát, buồn phiền chẳng khác nào bị ai đâm chém bằng một lưỡi dao cùn!? (ý nói dao cùn chém, thì nạn nhân trước khi chết bị đau đớn rất nhiều. Còn dùng dao bén để chém thì nạn nhân chết tức khắc, sự đau khổ cũng theo đó biến mất).

Nhưng đức Bồ Tát (tiền thân Phật) vội thẳng thắn trả lời:

‘Nầy đạo sĩ! Giữa những người bạn chân thành, lời nói ngay thật, không cần dè dặt, vị nễ, như một người thợ gốm cẩn thận trước những chiếc bình chưa đuợc nung chín! Người bạn tốt là người có thể thốt ra lời phê bình bất cứ lúc nào. Vì chỉ nhờ những lời khê bình xây dựng cùng những câu khuyến khích liên tục như thế, mà một kẻ sống đời sống phạm hạnh, mới rèn luyện được một thánh tâm vững chắc. Ví như chất đất sét trắng tinh, được uốn nắn và nung nấu trở thành những đồ sứ thượng hạng!”

Sau đó, đạo sĩ tiền thân A Nan Ða đã xin lỗi đức Bồ Tát (tiền thân Phật) và yêu cầu Ngài, vì lòng từ bi, hãy tiếp tục hướng dẫn ông ta.

Thuở bấy giờ, những công phu tu luyện, được so sánh với sự gạn lọc đất sét tinh khiết, rồi nắn đúc thành những đồ sứ trang trọng tốt nhất, đã được xã hội thông dụng nên rất thích hợp để so sánh cái tính đa cảm, hay dễ giận của con người với cái tính dễ hư của những bình sứ mỏng manh chưa được nung chín!

Một người thợ gốm bao giờ cũng nâng niu những chiếc bình đất tinh vừa nắn xong, còn ướt, chưa khô, một cách e dè, thận trọng, vì sợ làm vỡ. Rồi sau khi đã nung qua lửa thứ nhất, họ lại cẩn thận tìm đi, tìm lại, những vết nhăn hay những lằn nứt, trước khi cho vào lò, nung chín lần sau cùng. Người thợ gốm rành nghề còn biết thử những tác phẩm của mình, khi ra lò bằng cách gõ nhiều lần để nghe tìm ra những “tì vết” trong âm thanh. Khi âm thanh ngân vang, trong, đều, và luôn luôn giống nhau, thì họ mới yên tâm đưa nó ra thị trường để bán.

Tương tự như thế, một người trở nên trọn lành chỉ khi nào họ đã trải qua tất cả những sự thử thách, và đạt được những phẩm cách cao nhất, xứng đáng nhất, để bước vào Thánh Ðạo! ( Trong Phật Giáo có 2 từ ngữ là Thánh Ðạo và Thánh Quả. Người đắc Thánh Ðạo là người không những chỉ đã dứt trừ mọi hoài nghi trong Bác Chánh Ðạo, mà chính họ còn biến thành thuần thục, để sống một đời sống đúng theo Bác Chánh Ðạo, với một tâm hồn luôn luôn an lạc, hướng thiện)

Rồi kiếp quá khứ đó, tiền thân A Nan Ða đã hưởng được quả lành, tái sinh vào cõi trời Phạm Thiên (Theo Jàtaka n.406 = Túc Sinh truyện số 406). Và trong những kiếp quá khứ khác, ông cũng đã nhờ sự hướng đạo của tiền thân đức Phật, mà gặt hái được nhiều phúc lộc (Theo Majjhima Nikàya n.122 = Trung A Hàm số 122). Tất cả những gì tiền thân A Nan Ða hưởng được, không phải do nhờ phép lạ, mà chính là do ông có một tinh thần hướng thiện cao độ, bền bĩ, luôn luôn nghe những lời đức Bồ Tát (tiền thân Phật) chỉ dạy, và ghi khắc những lời vàng ngọc ấy vào tâm, để thực hành một cách vui vẻ.

3. Xứng Ðáng Với Vai Trò Hầu Phật
Một trong những đức tính của A Nan Ða là nết hạnh hết lòng hầu cận Phật. Chính đức Bổn Sư cũng đã xác nhận như thế nhiều lần, và Ngài còn thêm rằng: “A Nan Ða là đệ tử xứng đáng nhất trong những người đã phục vụ Như Lai. Bất cứ lúc nào Như Lai cần điều gì, thì ông là người có mặt trước tiên, không để Như Lai chờ đợi” (Theo Anguttara Nikàya I.19 = Tăng Nhất A Hàm số I.19).

Thực ra ba chữ “hầu cận Phật” không rõ nghĩa cho lắm. Vì từ ngữ thế gian khó mà diễn tả chính xác cái vị trí của A Nan Ða trong cộng đồng phạm hạnh, dưới sự hướng dẫn của đức Phật. Nếu chúng ta gọi A Nan Ða là vị bí thư hay viên phụ tá của đức Phật thì đúng hơn, nhưng lúc bây giờ, cái khía cạnh từ ái, tôn thờ, phủ phục, sẵn sàng hy sinh của A Nan Ða đối với đức Phật không được diễn đạt. Còn nếu chúng ta gọi ông là một đệ tử hầu hạ Phật, thì cái vai trò tổ chức, và nhiều lần đại diện Đức Phật lãnh đạo giáo hội, một cách khéo léo của ông, lại bị bỏ quên!

Rồi khi vượt ra ngoài phạm vị Phật Giáo, chúng ta cũng không thể tìm ra, trong các kho tàng văn chương triết học nào khác, một nhân vật tương tự, nghĩa là một nhân vật có thể vừa là đệ tử hầu hạ vừa là viên phụ tá của vị giáo chủ, đồng thời nhân vật đó cũng có khả năng trở thành một giáo chủ, như A Nan Ða!

Sự hầu hạ chuyên cần của ông dành cho đức Phật trong 25 năm trường thì nhiều lắm. Chúng ta chỉ mô tả tượng trưng một số những công tác hàng ngày mà thôi. Chẳng hạn như mỗi sáng và mỗi tối, A Nan Ða phải mang nước rữa mặt và dụng cụ đánh răng cho đức Phật. Rồi ông phải chuẩn bị tọa cụ trước khi dâng điểm tâm đến Phật. Buổi trưa, A Nan Ða đi khất thực phải về trước, để rước bát đức Phật. Nước trong, ông phải chuẩn bị sẵn, để rửa chân cho Phật. Khi ngọ thực, ông luôn luôn ăn sau đức Phật, và khi Phật dùng bữa xong, ông có bổn phận xin vật thực còn lại trong bình bát của đức Phật, để chia sớt cho các tỳ khưu kém phúc hay bố thí đến những dân nghèo. Y phục, tịnh thất và bình bát của đức Phật, A Nan Ða luôn luôn dọn quét, giặt rũ và rửa lau sạch sẽ. Khi đức Thế Tôn mệt mỏi thì ông xức dầu, xoa bóp hay tìm thuốc cho đức Phật. Thậm chí đến giấc ngủ, A Nan Ða cũng nằm gần Phật, nhất là lúc Phật đau ốm, để khi Phật cần điều chi, không phải chờ lâu.

Theo Mahàvagga, III, 16 (Kinh Ðại Phẩm, chương III, đoạn 16) thì ngoài những công tác dành riêng cho đức Phật kể trên, A Nan Ða hằng ngày còn đích thân trông nom tất cả các sinh hoạt của chư tăng, đặc biệt là những tỳ khưu mới xuất gia. Thậm chí đến khi mọi người ai nấy đã lui vào tịnh thất (buổi trưa cũng như buổi tối) ông còn quán xuyến khắp nơi trong chùa, xem có tỳ khưu, sa di nào bỏ quên vật gì hay không, để đem cất vào một chỗ, sau trao lại cho họ.

Mỗi khi đức Bổn Sư cần truyền đạt lời dạy gì đến tăng chúng thì ông chính là viên thông tin đem lời dạy ấy đến tận tai mọi người (Theo Cùlavagga V.20: Tiểu phẩm số V.20).

Nhiều lúc ngay nửa đêm mà Ðức Phật muốn gặp tất cả tăng chúng, A Nan Ða cũng vui vẻ triệu tập đầy đủ (Theo Jàtaka 148).

Một lần nọ tăng chúng thờ ơ trước một sa môn ngã bệnh trầm trọng. Đức Phật và A Nan Ða đã đích thân tắm rửa cho bệnh nhân, và khiêng bệnh nhân đặt nằm nghĩ gần A Nan Ða để ông chăm sóc (Theo Mahàvagga VIII.26).

Cứ như thế, A Nan Ða đã chu toàn rất nhiều công việc hằng ngày, hầu mang lại sự an vui thân thể cho đức Phật (và cũng là người anh thúc bá đã giác ngộ của ông), đồng thời mang lại niềm tin cho cộng đồng tăng chúng, như một người mẹ hiền chăm sóc, kính yêu đứa con trưởng đức hạnh hoàn toàn (ám chỉ Ðức Phật) cùng con mới khôn lớn, không phân biệt tánh nết, tài năng (ám chỉ cộng đồng tăng chúng).

Nhưng công tác nổi bật hơn hết, là A Nan Ða đã đóng vai một viên bí thư xuất sắc nhất của đức Phật. Ông có khả năng chuyển đạt mọi giáo huấn, mọi mệnh lệnh của đức Bổn Sư đến hàng ngàn tăng chúng một cách rất nhã nhặn, nhanh chóng và hợp thời, khiến cho mọi việc hấp hành của giáo hội, lúc nào cũng thống nhất, trật tự, ít khi bị sơ sót.

Về phương diện đối ngoại, A Nan Ða đã khéo léo hợp tác với Xá Lợi Phất (Sàriputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna) để giải quyết những vấn đề, nhiều khi rất phức tạp và tế nhị trong mối liên hệ giữa con người với con người, cũng như giữa tăng già Phật Giáo và Xã Hội.

Theo Anguttara Nikàya IV, 249 (Tăng Nhất A Hàm số IV, 249) thì khi cuộc tranh luận của cộng đồng tỳ khưu ở Kosambi xảy ra, cũng như khi Ðề Bà Ðạt Ða mưu toan chia rẽ tăng già Phật Giáo (Theo Udàya v,8 và theo Cùlavagga VIII ), A Nan Ða đã đóng vai trò điều động hai cuộc giải độc rất hữu hiệu. Nhờ đó, về sau toàn thể tăng chúng đã hòa thuận trở lại.

Mặt khác, A Nan Ða cũng là một trong những đệ nhất Như lai sứ giả của đức Thế Tôn để liên lạc với các tôn giáo khác. Mỗi khi đức Phật bảo ông đi liên lạc với ai, dù khó khăn đến đâu, ông cũng không bao giờ từ chối. Và khi thi hành những nhiệm vụ như vậy, A Nan Ða không có cảm tưởng là mình chỉ đơn giản là người thông tin, mà ông ta còn tỏ ra đầy đủ tư cách của một nhà ngoại giao.

Quay về sinh hoạt nội bộ, nhiều lần tăng chúng không tránh được làm ồn trong tu viện. Ðức Phật hỏi A Nan Ða tại sao, thì ông đã mạnh dạn cắt nghĩa rành mạch lý do cho đức Phật rõ (Theo Mahàvagga 67, Pàcittiya 65 và Udàya III.3). Nhờ vậy, đức Thế Tôn mới biết chắc duyên cớ mà ban bố những lời giáo huấn thích hợp.

Một trường hợp làm ồn đáng kể lại như sau:

Có một mhóm tỳ khưu đã quên mình nói chuyện lớn tiếng, gây ồn aò trong tu viện. Ðức Phật hay tin, bèn bảo A Nan Ða khiển trách.

Nhóm tỳ khưu đó, sau khi được A Nan Ða nhắc nhở, khiển trách, bằng những lời lẽ xây dựng, ai về chỗ nấy chăm chỉ hành thiền. Họ tinh tấn tu luyện đến độ trong mùa nhập hạ năm ấy, tất cả đều đạt đươc ba Tuệ-giác biết được tuổi thọ của mọi chúng sinh và Tuệ-giác biết mình còn ít hay nhiều tham sân si.

Vào một buổi tối, nhân được Phật gọi, nhóm tỳ khưu nầy liền đến hầu Phật. Nhưng lúc họ tới nơi thì Thế Tôn đang nhập định. Theo chú giải khi ấy tâm Phật đang an trú tại một cõi thiền hữu sắc, tên là Anãnja Samàdhi (có nghĩa là An-trụ trên thiền sắc Vô-tướng!) Những nhà sư nầy tức khắc nhận ra thiền Tịnh-sắc của Ðức Phật, bèn tất cả ngồi xuống rồi nhập định…

Thời gian yên lặng trôi qua, trong Phật thất, hai canh đầu của đêm trường, khung cảnh chợt im lìm phăng phắc.

A Nan Ða hiểu lầm là các tỳ khưu ấy thấy Phật nhập định, nên kiên nhẫn ngồi chờ. Và muốn giúp họ sớm được Phật tiếp, ông vội lên tiếng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Có chư đệ-tử đến yết kiến!” Nhưng tất cả vẫn yên lặng…

Rồi hai canh giữa đêm cũng trôi qua, A Nan Ða lại nhắc Phật: ” Bạch đức Bổn Sư! Chư đệ tử đã đến!” Nhưng sau lời trình lần thứ hai của A Nan Ða, bầu không khí tại Phật thất, càng chìm sâu trong tịch tịnh. Mọi vật đều bất động…

Lúc A Nan Ða lên tiếng trình Phật lần thứ ba thì bên ngoài, trời đang hừng sáng, Ðức Thế Tôn đã xả thiền, và phán với A Nan Ða rằng:

“- Nầy A Nan Ða! vì ông chưa chứng được thiền sắc vô tướng, nên suốt đêm ông đã không biết rằng Như Lai và các tỳ khưu đáng khen nầy đã nhập định! Và không có một âm thanh nào có thể khuấy động nhĩ thức của Như Lai hay của họ được!”

Thuật sự nầy chứng tỏ rằng A Nan Ða lúc đó chưa đạt tới những bậc thiền cao. Nhưng tính kiên nhẫn của ông rất đáng quí, vì túc trực, trọn đêm để hầu Phật, khi có chúng tăng đến yết kiến như thế, ông quả thực là người duy nhất đã làm được một cách vui vẻ và dễ dàng.

Rồi Phật lại khen ngợi A Nan Ða:

‘- Nầy A Nan Ða! Những tỳ khưu nầy trước đây ham thích tranh luận, chễnh mảng việc tu hành, thì ngày nay, sau lần khuyến cáo của ông, họ đã trở thành những sa môn tinh tấn hành thiền, đắc được ba tuệ giác!”

A Nan Ða nghe đức Phật tiết lộ kết quả của sự biết sửa mình và tinh tấn tu hành của nhóm tỳ khưu do ông khuyến cáo, bèn lấy làm thỏa thích. Từ đó, A Nan Ða chăm chỉ hành thiền, mặc dù trên vai còn nhiều nhiệm vụ khác.

Kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy thường nhắc đến hai lần A Nan Ða hỏi Ðức Phật về các đề mục thiền định đòi hỏi hành giả phải thực hành trong rừng vắng.

Ðức Bổn Sư đã dạy cho A Nan Ða lần thứ nhất rằng:

“- Hãy quán tưởng về ngũ uẩn, tức là quán tưởng về Sắc-Thọ-Tưởng-Hành và Thức” (Theo Samgutta Nikàya 22.158 = Tạp A-hàm số 22.158)

Và lần thứ hai, Ngài dạy rằng:

“- Hãy quán tưởng về lục-căn, gồm: Nhãn-căn, Nhĩ-căn, Tỉ-căn, Thiệt-căn, Thân-căn và Ý-căn!”(Theo Samyutta Nikàya 35,86)

Còn nói về công lao phụng sự chư huynh đệ, thì tên tuổi của A Nan Ða được ghi rõ trong kinh Anguttara Nikàya n.60 ; XI 58 (Tăng Nhất A Hàm số 60 ; XI.58) như sau:

“Khi sa môn Girimananda và sa môn Phagguna bị bệnh trầm trọng, A Nan Ða là người tới lui chăm sóc thường xuyên nhất. Ông còn theo dõi tâm bệnh của hai nạn nhân, để thỉnh cầu đức Phật ban diệu pháp hầu cứu độ họ trải qua những giây phút nguy kịch.

Ngay cả ngôi chính điện lộng lẫy Kỳ Viên tự, (khi ông bá hộ Cấp Cô Ðộc tỏ ý muốn xây lên trong vườn Kỳ Ðà, để dâng đến Phật giáo) cũng do A Nan Ða yêu cầu Ðức Phật nhận lời. Ngôi chùa nầy về sau trở thành tổ đình đầu tiên của Phật giáo (theo Jàtaka số 479).

Nghĩa là bằng cách nầy hay bằng cách khác, A Nan Ða đã tỏ ra là một sa môn sốt sắng xây dựng giáo hội. Ông luôn luôn phục vụ cộng đồng với đầy đủ các đức tánh của một người mẹ hiền, hay một người cha lành tròn hạnh kiểm, hằng chu toàn cho con cái.

Biệt tài tổ chức, thuyết phục và hướng dẫn nhiều ngườì của A Nan Ða cũng đã biểu lộ trong một kiếp trước. Khi ông sinh làm vị Phạm Thiên phụ tá của vua trời ÐếThích (Sakka).

Theo những kinh điển nói về tiền kiếp của A Nan Ða trên các thiên cảnh, thì có một kiếp nọ, ông là vị tiên phụ tá duy nhất có hào quang sang bằng hào quang của vua trời. Ông đã được đức vua trời Ðế Thích giao cho cai quản toàn bộ Thiên Xa và được điều khiển Long Xa mỗi khi vua ngự đi đâu (theo các Jàtakàs số 31, 469, 535 và 541)

Riêng trong Jàtaka (Túc Sinh truyện) số 489 thì tiền thân A Nan Ða là vị tiên kiến trúc sư tên Vissakamma. Hoặc trong hai Túc Sinh truyện (Jàtaka) khác số 75 và số 450 thì một trường hợp, tiền thân ông là vị thần mưa tên Pajjuma, còn trường hợp kia: tiền thân ông là vị thần Ngũ-Nhạc tên Pãncasikha.

Nhưng tấm lòng hy sinh và bảo vệ đức Phật của A Nan Ða có lẽ phải cần đề cao hơn hết. Khi Ðề bà Ðạt Ða (Devadatta) thả một con voi hung dữ để hãm hại Ðức Phật, A Nan Ða đã can đãm xông tới đứng chắn ngang trước mặt Phật, sẵn sàng hy sinh thân mạng để che chở cho đấng Toàn Giác. Thà ông chịu để con voi điên và Ðề Bà Ðạt Ða phạm tội giết ông, chứ ông không muốn họ phạm trọng tội sát hại, hay làm tổn thương một vị Phật.

Ba lần Ðức Thế Tôn bảo ông lùi lại, nhưng ông đã không làm theo, cho đến khi ông bị đức Phật dùng thần thông nhấc bổng ông lên, nhẹ nhàng đặt ông nơi khác, thì chừng ấy ông mới yên trí là sự hy sinh cứu Phật của ông không cần thiết. Và tinh thần hy sinh ấy đã làm cho danh thơm của A Nan Ða lớn rộng về sau (theo Jàtaka số 4533).

Nhân đó, Ðức Phật đã nhắc lại, trước các hàng tăng chúng rằng: “Trong những tiền kiếp A Nan Ða đã từng hy sinh tánh mạng để cứu vị Bồ Tát là tiền thân Như Lai đến bốn lần!”

Còn trong hai kiếp khác rất xa xưa, giữa vòng luân hồi thăm thẳm: Khi cả tiền thân Ðức Phật và tiền thân A Nan Ða sinh làm hai con chim Thiên Nga, rồi hết tuổi thọ sinh làm hai con nai (theo các túc sinh truyện số 502, 533, 534 va 501). Từ Thiên Nga đến nai tiền thân A Nan Ða đã không chịu bỏ rơi bạn mình là tiền thân Phật sinh làm thú tương tự bị sập bẫy. Kết quả cả hai đã chịu chết với nhau dưới bàn tay tàn ác của một ngưòi thợ săn.

Nhưng theo túc Sinh truyện số 222 thì tiền thân đức Phật là một con khỉ hiếu thảo, đã hy sinh tính mạng để cứu mẹ là tiền thân A Nan Ða. Mặt khác, trong những lần luân hồi cộng nghiệp như thế, tiền thân của đức Phật và tiền thân của A Nan Ða thường đã nhờ tính thông minh đặc biệt và thận trọng tự nhiên đã cứu mạng lẫn nhau một cách dễ dàng.

Trên đây là những mẫu chuyện liên quan đến các đức hy sinh và duyên nghiệp luân hồi song song của tiền thân A Nan Ða và tiền thân đức Phật vậy.

4. A Nan Ða Ðáng Gọi Là Kho Tàng Pháp Bảo.
Kỳ công và biệt tài nổi bật, đã nâng A Nan Ða lên hàng một trong những đệ tử thông thái nhất của Ðức Phật, là khả năng nhớ nhanh, nhớ nhiều và nhớ dai của vị tông đồ nầy!

Mặc dù Ðức Phật còn tại tiền, A Nan Ða chưa đắc quả A La Hán, nhưng ông đã được xem tương đương như một trong những thinh văn của cộng đồng Thánh Nhân. Ông xứng đáng để được toàn thể Phật tử lúc bấy giờ tặng cho danh hiệu “một tông đồ xuất chúng”! Bốn chữ “Tông đồ xuất chúng” nầy có nghĩa là ông có đủ khả năng và đức tính của một bậc giải thoát.

Ngoại trừ hai đại thinh văn, có hai năng lực phi thường , là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, thì A Nan Ða là một trong 75 đại đệ tử nổi tiếng khác của đức Phật.

Trong khi 74 vị kia có những xuất sắc chuyên biệt thì A Nan Ða đã nổi tiếng nhờ bốn trong năm “nền tảng trí thức thượng thừa”.

– Nền tảng trí thức thứ nhất là ông đã nghe nhiều hơn ai hết, nghe gần như toàn thể những lời Phật dạy.

– Nền tảng trí thức thứ hai là ông đã nhớ nhiều hơn ai hết, nhớ đầy đủ những lời Phật dạy.

– Nền tảng trí thức thứ ba là ông đã hiểu nhiều hơn ai hết, hiểu cả hệ thống Pháp Bảo, kể luôn ý nghĩa súc tích khi phối hợp các Phật ngôn dạy trước với các Phật ngôn dạy sau, một cách song đối hay thứ tự.

– Nền tảng trí thức thứ tư ông là người tin tuởng nơi Pháp Bảo của đức Phật, tin tuởng chắc chắn nhất, trên tất cả mọi học thuyết (theo Anguttara Nikàya n.I, 19 = Tăng nhất A-Hàm I,19)

(Riêng nền tảng trí thức thứ năm là “sự cần cù, dẻo dai, nhiều nghị lực trong việc hầu hạ một bậc Toàn Giác của A Nan Ða”, không nên kể đến. Vì thuở bấy giờ, mà đề cập đến nền tảng trí thức ấy, đối với A Nan Ða là một chuyện thừa! Chẳng khác nào như ta khen “nước biển là chất lỏng mặn nhất” trên thế gian nầy!)

Khi nghiên cứu kỹ trong kinh đìển Phật Giáo chúng ta sẽ nhận thấy rằng những nền tảng trí thức vừa nêu trên thuộc về một công phu rất tiêu dụng, từ đó có thể sinh ra đức tính cảnh giác, tiếng Pali gọi là Sati. Cái công phu mà sức mạnh và ảnh hưởng của nó hằng giúp cho hành giả có một tinh thần trong sáng, vững chắc, đủ khả năng để phân biệt mọi cảm giác trong thân cũng như mọi khái niệm ngoại thân, hầu không để coi ý thức bị tham, sân, si lôi kéo.

Và cũng nhờ cái công phu tuyệt diệu ấy, mà khả năng sử dụng trí nhớ của hành giả, ở bất cứ lúc nào, và đối diện với tất cả các vấn đề, đều luôn luôn thanh tịnh, không bị chính cái trí nhớ của họ dẫn họ vào nẻo ngã mạn cố chấp.

Nói cách khác dễ hiểu hơn: Ðức tính cảnh giác là hạt nhân sẽ đem lại thực quả là sự biết mình. Rồi nhờ sự biết mình ấy mà hành giả nhận rõ mọi hiện tượng xung quanh, phân biệt pháp lành với pháp ác, cái nào đang phát động trong tâm tư mình ; hầu tự thu thúc lục văn, sống đúng theo Chánh Pháp.

Thực ra, chữ Pali “Sati” có nghĩa là thông thường là “trí nhớ” (tức khả năng tự “biết lại” những cái gì đã trôi qua!) Chính nhờ cái “trí nhớ” ấy mà quá khứ và hiện tại mới được nối liền với nhau bằng những chuỗi truyền cảm ký ức.

Nhưng đối với A Nan Ða, trong kiếp chót, trí nhớ (sati) đã biến thành sự biết mình (sampa janna). Tức là ông không phải chỉ nhớ suông đến những điều ông đã học thuộc lòng, mà ông còn cảm thấy, cái tác dụng của nó nữa!. Ðể khi lập lại, ông biết tùy theo trình độ trí thức của mỗi người nghe mà diễn đạt từ thấp tới cao, từ nông cạn đến sâu sắc, từ thô kệch đến vi tế, chứ ông không phải nhắm mắt lập lại, một cách hổn độn, loạn xà ngầu.

Còn về phương diện nhớ nhanh và nhớ chắc thì A Nan Ða có thể xem là vô địch! Nhờ thiện hạnh tồn trữ từ nhiều đời trước, kiếp nầy ông chỉ nghe qua một lần là ông có thể lập lại nguyên văn một bài Pháp của Ðức Phật gồm 60000 chữ một cách dễ dàng. Một lần khác, A Nan Ða đã tụng lại 150 ngàn bài kệ, mỗi bài bốn câu của Ðức Phật dạy.

Kỷ lục ghi nhớ tức khắc, và ghi nhớ đầy đủ của A Nan Ða, khiến ta có cảm tưởng, như ông đã dùng phép lạ, mới thực hiện nổi một kỳ công như thế! Nhưng theo Phật Giáo thì phép “lạ” của A Nan Ða không có gì khác hơn là ông không để cho tâm trí của mình bị vướng mắc bởi những ý tưởng vô ích. Những ý tuởng vô ích nầy vốn có hàng trăm, ngàn thứ và luôn luôn “choáng hết chỗ” trong đầu óc con người, thì còn đâu tiềm lực để cho trí nhớ của họ được phát triển!?

Ðức Phật dạy rằng: ” Nguyên nhân duy nhất khiến cho một người hay quên là sự có mặt của năm pháp chướng: tham dục, ác tâm, hôn trầm, vọng tưởng (phóng dật) và hoài nghi!” (theo Anguttara Nikàya V 193)

A Nan Ða lúc ấy tuy chưa đắc quả A La Hán nhưng nhờ ông vâng lời Phật dạy lấy Chánh Niệm làm nền tảng tu luyện, đồng thời nhờ phúc duyên tu nhiều kiếp trước, nên mỗi khi ông tập trung tâm trí để nghe pháp, là năm pháp chướng ấy không thể nào khuấy nhiểu ông được.

Ngay cả ngày nay, nhiều cao tăng Phật Giáo ở Miến Ðiện, chỉ nhờ thành công phần nào trong việc loại trừ năm pháp chướng ấy, mà cũng có thể nhớ nằm lòng Tạng Luật, Tạng Kinh hay Tạng Luận một cách dễ dàng. Có vị còn đủ khả năng nhớ cả tam tạng gồm 45 quyển in đầy cả chữ nữa.

Khi A Nan Ða nghe Pháp, ông không có một gợn tư duy nào trong tâm ông cả. Ông không để cho cái “ngã” nổi dậy để bình phẩm “câu nầy dài, câu khi ngắn. Câu nầy sâu sắc, câu kia thông thường, âm thanh câu nầy cao, âm thanh câu khi thấp v.v…!”

Trong ý thức của ông lúc ấy chỉ có một điều là nghe và ghi nhớ một cách tự nhiên, không bấn loạn hay hoang mang, sợ rồi mình sẽ quên những đìều Phật dạy. Như một viên thư ký chuyên nghiệp, chỉ biết vô tư chép đúng những lời người khác nói, lên tranh giấy trắng tinh một cách tự tin và bình thản!

Và trang giấy trắng tinh của A Nan Ða là trí óc thanh tịnh, không bị năm pháp chướng làm mờ đục, hoen ố vậy.

Ðây chính là tư cách của một đại thinh văn (Bậc được nghe nhiều học rộng). Vì ai được nghe và học nhiều bằng phẩm hạnh nầy sẽ loại trừ được tánh ương nghạnh, tự đắc, nằm sẵn trong tâm, và biến trí óc mình thành một kho tàng chứa toàn chân lý. Và người được nghe và hấp thụ càng nhiều chân lý thì những ác pháp trong tâm họ, đương nhiên càng được tiêu trừ!

Các hạng thinh văn như thế có thể ví như những hạt kim cương, tiếp nhận ánh sáng chân lý, từ tôn khẩu của đức Phật, nên sự phản chiếu ánh sáng chân lý (ám chỉ sự lập lại) cũng trung thực, không thêm, không bớt, không rõ, không mờ! (theo vật lý học, kim cương là môi trường mà ánh sáng hiện ra chính xác nhất)

Bởi vậy, một bậc thinh văn chân chánh là người luôn luôn tự nhiên, và tuyệt đối tôn trọng sự thật. Bất cứ điều lành nào họ ghi vào trí nhớ để thực hành, là họ không bao giờ cho rằng “ấy là nhờ trí tuệ tinh anh của mình suy diễn mà được, nhưng ấy là “sự thật trong chánh pháp!” Và họ chỉ là người được nghe và khách quan nhận ra giá trị của nó.

Như mấy câu thơ sau đây của Rainer Maria Rilke đã ca ngợi A Nan Ða:

“Thấy sự thật không tự hào tinh mắt.

Hiểu sâu xa không nghĩ tuệ mình cao.

Hạng thinh văn như thế hiếm dường nào,

Như giọt nước long lanh trên sa mạc!”

Bài thơ nầy phản ảnh một cách trái ngược tâm tánh của A Nan Ða, khi ông chưa xuất gia. Lúc ông mới đến với đức Phật, A Nan Ða là người chứa đầy vô minh, phiền não, ngã mạn và tự đắc. Nhưng càng về sau, nhờ sống bên cạnh đức Bổn Sư, mà ông mỗi ngày một thấm nhuần chân lý giải thoát. Thấm nhuần đến độ mà ông không còn là ông nữa! Ông đã biến thành hiện thân của Pháp Bảo, biến thành “Pháp-Thân” của đức Phật, để hơn 2500 năm sau, cái tên A Nan Ða không còn là một danh xưng nữa, mà nó chính là “ngôn ngữ mở đề” của các kinh đìển Phật Giáo.

Phẩm cách nghe Pháp và thấm nhuần chân lý vào trí óc của A Nan Ða được gọi là nền tảng trí thức thứ nhất (trong năm nền tảng trí thức). Kinh Samyutta Nikàya (Tạp A Hàm số 14.5) còn ghi rõ rằng: “A Nan Ða đã thấm nhuần lời Phật dạy như thế nào, thì khi ông truyền lại Phật ngôn cho đệ tử, cũng làm cho họ thấm nhuần như thế ấy!”

Còn theo kinh Tăng Nhất A Hàm số III,78 (Angutta Nikàya n. III, 78) thì Phật đã xác nhận rằng:

“A Nan Ða có một nghệ thuật nghe Pháp rất đặc biệt, không thể tìm ra một người thứ hai trên thế gian nầy!”

Một lần nọ, đức Phật ngự tại vườn Song Long thọ Gosinga (cũng gọi là rừng Gosinga) với một số đông đệ tử hạng tôn túc. Ðức Trưởng Lão Xá Lợi Phất (Sàriputta) thấy khung cảnh thanh nhã, đã tán dương rằng: “Ðây có thể gọi là vườn An Lạc, vì những cây song long nở đầy hoa, hương thơm tõa kín không gian, như một cõi trời …!”

Rồi Trưởng Lão nêu câu hỏi:

“Kính thưa chư đạo huynh! Một khung cảnh thanh tịnh như thế nầy, có thể đem so sánh với phẩm hạnh của sa môn nào trong chúng ta, là xứng đáng nhất?”

Các vị đại đệ tử của đức Phật liền lần lượt trả lời. Mỗi vị làm nổi bật một khía cạnh trong sự so sánh của mình. Nhưng nói chung, tất cả ý chính đều qui về một đìểm là: mỗi sa môn đều có một phẩm hạnh đặc sắc, xứng đáng để so sánh với khung cảnh thanh tịnh của ngôi vườn.

Riêng câu trả lời của A Nan Ða thì như sau:

“Nầy chư đạo huynh! Sa môn nào là người nghe đủ tám muôn bốn ngàn Pháp môn của đức Phật, là người sống đúng theo chánh pháp, là người làm sáng tỏ và bảo tồn Pháp Bảo tốt đẹp ở đoạn đầu, tốt đẹp ở đoạn giữa, và tốt đẹp ở đoạn chót! Sa môn nào là người có khả năng truyền lại những lời Phật dạy một cách tròn đủ, không thêm, không bớt một cách khiêm nhượng, tự nhiên! Sa môn nào là người luôn luôn ghi nhớ rằng: Pháp nào ta đã hiểu được, ta có bổn phận cống hiến cho cộng đồng xã hội. Tức là sa môn có khả năng thuyết pháp đến các hàng tứ chúng (Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, thiện nam và tín nữ) làm cho họ trước tiên thỏa thích trong Pháp Bảo, rồi sau đó hiểu đúng nghĩa đế, để tiến tới phẩm hạnh diệt tận tham sân si, giải thoát!… thì sa môn ấy xứng đáng để so sánh với ngôi vườn kỳ diệu nầy!” (theo Majjhina Nikàya 32 = Trung A Hàm số 32)

Nền tảng trí thức thứ hai là giữ lại trong tâm bất cứ Pháp Bảo nào mà mình nghe được và tự động áp dụng những thiện pháp ấy, để mang lại lợi ích cao thượng cho chính bản thân mình.

Nền tảng trí thức thứ ba, chú giải tiếng Pali gọi là Gatimanta, tức là sự hiểu đúng mạch văn và hoàn cảnh của từng vấn đề. Cùng một từ ngữ mà trong một bài pháp nầy Ðức Phật ám chỉ thân nghiệp, rồi trong một bài pháp khác, đức Phật có thể ám chỉ ý nghiệp. Khi A Nan Ða được nghe nói đến hai lần trong một bài pháp khác, đức Phật có thể ám chỉ ý nghiệp. Khi A Nan Ða được nghe nói đến hai lần trong hai trường hợp khác biệt nhau, ông cũng hiểu Phật ngôn đúng theo nghĩa của từng thời pháp. Nói cách khác là bộ óc của A Nan Ða có khả năng “thu thanh” một cách chính xác và phân biệt mọi vấn đề theo thứ tự thời gian: Ðiều nào ông đã nghe, ông hiểu khác với nhiều điều ông đang nghe, không bao giờ lầm lẫn vì cố chấp trên một số từ ngữ.

Nhiều học giả Phật giáo đã ví bộ óc của A Nan Ða như một cái máy ghi âm siêu đẳng, có nhiều tầng số được thanh lọc. Mỗi tầng số dành thu phát một vấn đề chuyên biệt, không bao giờ cho những âm thanh bất thiện, ngoại đề, có thể dập vào trong âm trường của làn sóng.

Theo một thuật sự trong tam tạng Pali thì A Nan Ða có khả năng nghe nhiều đoạn pháp khác nhau cùng một lúc. Những đoạn pháp ấy có thể thuộc về nhiều đề tài khác nhau, và được thuyết xen kẽ nhau. Nhưng sau khi nghe xong, A Nan Ða đã có thể ráp nối các đoạn pháp rời rạc ấy một cách mạch lạc, thứ tự, để hoàn tất một lúc hai ba bài pháp, thật dễ dàng! Thậm chí A Nan Ða còn có thể vừa nghe, vừa đem thuyết lại từng đoạn Phật ngôn rời rạc cho các hàng tứ chúng hấp thụ về một số đề Pháp chuyên biệt.

Và khi nghe xong các đoạn pháp ấy, thính giả luôn luôn khen ngợi A Nan Ða đã cống hiến cho họ một bài pháp, tuy gồm nhiều đoạn ráp nối nhưng rất dễ hiểu, hấp dẫn và mạch-lạc!

Ðiều ấy chứng tỏ rằng A Nan Ða đã có khả năng hiểu đúng, và nắm vững ý chính từng chữ, từng câu, hay từng đoạn do đức Phật thuyết dạy, bằng một nghệ thuật rất khoa học!

Nhờ thế, nhiều lần A Nan Ða, trong lúc đang thuyết lại một số Pháp Bảo, chợt bị các đồng đạo chất vấn bất ngờ, ông vẫn có thể ngưng lời, để giải đáp cặn kẽ, rối quay lại đề chính một cách tự nhiên, dễ dàng, mà không bao giờ bị lạc ý hay lúng túng!

Nền tảng trí thức thứ tư là nghị lực và sự hiến thân không thối chuyển trong nhiệm vụ học hỏi và duy trì Pháp Bảo Giải Thoát, với tư cách là một thinh văn thân cận nhất của một bậc Giác Ngộ!

Nền tảng trí thức thứ năm là công hạnh của một đệ tử hầu Phật hoàn toàn nhất, của A Nan Ða, như chúng ta đã đề cập qua trong đoạn trước!

Ngày nay, khi chúng ta nhắc lại 5 nền tảng trí thức ấy, chúng ta không thể nào không mường tượng ra hình ảnh linh hoạt của đại tôn giả A Nan Ða. Tuy ông ở vai trò làm phát ngôn viên chính thức của đức Phật, ông là trọng tâm của mọi sự chú ý, mà ông vẫn ung dung, hòa ái, đối xử một cách bình dị, cởi mở với tất cả mọi người.

Ðối với những ai thường tiếp xúc với ông, A Nan Ða là mẫu người hiếm khi bị chê trách, vì đức tính phụng sự đức Phật và tăng chúng không biết mệt, cũng như tình bạn không lay chuyển, mà ông luôn dành cho tất cả mọi người!

Nhiều khi, có những xung đột xảy ra trong các hàng tăng chúng, mà A Nan Ða không hay. Thay vì ông dửng dưng làm người ngoại cuộc cho yên thân thì A Nan Ða đã tình nguyện làm “hoà bình sứ giả” để dùng từ tâm của mình giải quyết mọi vấn đề một cách êm đẹp!

Và A Nan Ða đã luôn luôn thành công, vì ông là một sa môn không bị ai ghét bỏ. Ông là một người không có kẻ thù. Hình ảnh của ông chỉ là hình ảnh của một đệ tử trung thành với đức Phật.

Ông đã hết long phục vụ tăng chúng đồng thời với sự tận tụy hầu hạ của đức Phật. Nên trong tâm tư của những đồng đạo của ông, ông không bao giờ lưu lại một nét bất mãn.

Mặt khác, A Nan Ða vốn đã cũng là một người rất giỏi tổ chức. Ông luôn luôn biết trước và nắm vững mọi sinh hoạt của các hàng tứ chúng, có liên hệ đến ông hàng ngày. Ông như một vị “giám đốc” kỳ tài, biết phân phối rõ ràng chương trình làm việc đến tất cả mọi người để cho những sinh hoạt tăng già luôn luôn được diễn ra tốt đẹp. Rồi nhờ tính cẩn thận và cảnh giác cố hữu, A Nan Ða hàng ngày rút ra nhiều bài học quý giá. Cùng một sơ hở, người khác có thể vấp phải nhiều lần, nhưng A Nan Ða không bao giờ phạm một lỗi đến lần thứ hai.

Tính cảnh giác và trí nhớ đặc biệt còn giúp cho A Nan Ða có thể nhận diện hàng trăm hàng ngàn Phật tử xa gần khác nhau một cách kỳ diệu! ông chỉ cần thấy mặt một người nào đó một lần, là trong bao nhiêu lần sau, ông cũng sẽ nhận ra họ được!

Và cũng nhờ cái tài ” nhớ rõ mặt mũi từng người” ấy, mà A Nan Ða đã có thể đoán trước (ngày nay chúng ta thường gọi là xem tướng) biết được bản chất của từng người một, hầu đối xử với họ làm sao cho hợp lẽ, để họ tự động học hỏi thấm nhuần Phật Giáo, không gây cho họ cái cảm tuởng “Ông là người đã khéo léo dẫn dụ họ quay về với đạo Phật!” Bất cứ ai lúc quy y đạo Phật, sau khi đã nghiên cứu giáo lý Phật Ðà với A Nan Ða, cũng đều nghĩ rằng: chính họ đã tìm ra Chánh Pháp, chứ không bị ai ảnh hưởng cả!

Nói tóm lại, A Nan Ða là một sa môn có đầy đủ phẩm hạnh để đóng vai trò đại diện cho đức Phật trước các hàng tứ chúng, hầu cùng với những vị đại Tông Ðồ khác lãnh đạo giáo hội. Và cái phẩm hạnh nổi bật nhất, cần luôn luôn nhắc đến ở đây, là phẩm hạnh của một bậc gìn giữ Pháp Bảo! Nếu Phật Pháp là một kho tàng của báu vô giá, thì A Nan Ða chính là vị bảo vệ kho tàng ấy chắc chắn nhất vậy!

5. A Nan Ða Ðối Với Nữ Giới
Ngay từ hồi còn làm hoàng thân, hai anh em A Nan Ða và Anuruddha đã không tỏ ra bị lôi cuốn bởi những sự hầu hạ của phái nữ. Nhờ bản chất ít đam mê trong dục lạc ở đời và nhờ tinh thần ưa chuộng sự sống thanh tịnh, nên sau khi xuất gia mọi liên hệ giữa họ với những người nữ phái dường như không còn cần thiết nữa. Nhất là Anuruddha, từ ngày xuất gia, sự tiếp xúc với nữ giới đã hoàn toàn cắt đứt! Không những Anuruddha tuyệt đối chẵng nhìn đến người nữ, mà ngay đến người nam cũng rất ít được ông giao dịch, trò nguyện nhiều lời. Ngoại trừ đức Phật.

Tuy nhiên, không phải vì vậy, mà vấn đề phái nữ không được đặt ra như một thách đố đối với A Nan Ða, nhất là vị đại tôn giả nầy vì bổn phận, hằng ngày phải tiếp xúc với đủ mọi hạng người. Huống chi A Nan Ða đã tâm nguyện đem thân mình hiến dâng cho tiền đồ Phật giáo!

A Nan Ða ngoài việc hầu cận đức Phật và phục vụ giáo hội, ông còn nhận bổn phận chăm sóc tất cả hàng Phật tử, bất luận là nam hay nữ! – Nếu không có A Nan Ða, trong Phật Giáo chỉ còn có ba hạng đệ tử mà thôi là, tỳ khưu, sa di và các hàng thiện tín.

Chính ông là bàn tay đã khai sinh hệ thống nữ tu khi đức Phật còn tại tiền. Theo Anguttara Nikày VIII (Tăng Nhất A Hàm số VIII) và Cùlavagga X (Tiểu Phẩm số X), thì sự bắt đầu của giáo hội tỳ khưu ni đã diễn ra như sau:

“Khi những nam hoàng thân trong vương tộc Thích Ca đã xuất gia, thì các phu nhân, các công chúa, các tiểu thơ cũng điều mong muốn sống đời sống phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của đức Phật. Do đó, có một số đông các mệnh phụ phu nhân dẫn đầu bởi hoàng hậu Mahà Pajapati Gotamì (tức là dì ruột, là kế mẫu, mà cũng là người đã nuôi dưỡng đức Phật từ khi chào đời cho đến khi khôn lớn) đã đưa nhau đến ra mắt đức Phật và xin phép xuất gia. Thoạt đầu đức Phật đã từ chối, vì biết chắc rằng đời sống khắc khổ, thanh đạm, không nhà cửa của các hàng sa môn chẳng thể nào thích hợp với những bậc khuê các. Nhưng mẫu hậu Mahà Pajapati Gotamì vẫn kiên nhẫn khẩn khoản đức Thế Tôn đến nhiều lần …

Khi A Nan Ða thấy kế mẫu của đức Phật hai chân sưng húp, y phục dính đầy cát bụi, đôi mắt thâm quần và ngập lệ, đứng trước cửa chùa một cách thểu não, bèn hỏi:

– Tâu mẫu hậu, vì sao người ra nong nỗi ấy?

– Bạch sa môn A Nan Ða! Mẫu hậu mong ước được sống đời sống xuất gia, nhưng đức Thế Tôn đã không cho phép.

– Mẫu hậu đã yêu cầu Phật đến lần thứ mấy?

– Ðến lần thứ ba rồi mà không được nên mẫu hậu đang buồn tủi vì tuyệt vọng!

A Nan Ða nghe thế liền đích thân đi yêu cầu Phật. Nhưng đến khi ông yêu cầu đến lần thứ ba vẫn bị đức Phật từ chối.

Và lòng từ bi đã không cho phép A Nan Ða thụ động, đứng nhìn hoàng hậu đáng thương như thế. Ông bèn an ủi hoàng hậu, rồi hứa sẽ tìm dịp thuận tiện tiếp tục yêu cầu đức Phật nữa…!”

Thánh Tăng Ananda (phần 3)

 Ðến đây thiết tưởng soạn giả cũng nên cắt nghĩa về thái độ của đức Phật. Ðức Bổn Sư sở dĩ từ chối sự xuất gia của mẫu hậu và các hàng phu nhân trong hoàng tộc Thích Ca bởi lẽ gìới luật của các bậc sa môn rất nghiêm nhặt, đời sống phạm hạnh rất thanh đạm, cơ cực, nếu không muốn nói là gần như khổ hạnh đối với những bậc quý phái thuở bấy giờ! Một vị hoàng hậu trở thành một vị tỳ khưu ni để sống giữa rừng vắng, thực phẩm hàng ngày là của bố thí của nhũng kẻ hảo tâm! Các mệnh phụ phu nhân ấy vốn quen sống trong nhung lụa, luôn luôn được hầu hạ thì làm sao biết tự lập, biết tổ chức và biết hạ mình, nhường nhịn nhau trước những cơ cực trong đời sống khất sĩ?! Vã lại, thuở đức Phật còn tại tiền, xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ được xếp đặt theo quan niệm chính trị của đạo Bà La Môn, một tôn giáo xem địa vị của nữ lưu rất thấp trong xã hội, nhất là nữ lưu ấy là một khất sĩ! Và người đàn bà không có quyền tạo thành một cộng đồng riêng biệt!

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể hiểu rằng, đức Thế Tôn từ chối việc xuất gia của mẫu hậu đến ba lần là để thử thách sự quyết tâm của bà cũng như để cho bà còn có thì giờ suy nghĩ lại hầu sau này khi khép mình trong khuôn khổ phạm hạnh, bà sẽ không tiếc rẽ đời sống vương giả nơi hoàng cung!

Trở laị vai trò của A Nan Ða trong vấn đề này. Vào một dịp, A Nan Ða hỏi Phật “- Bạch đức Thế Tôn một người đàn bà nếu dốc lòng muốn xuất gia, lấy ngày tháng phạm hạnh làm kiếp sống, nghiêm trì giới luật và theo gương các bậc Toàn Giác, người đàn bà ấy về sau có thể đắc quả Thánh Nhập Lưu, quả Thánh Nhất Lai hoặc quả Thánh Giải Thoát hay không?”

“Này A Nan Ða! Người đàn bà như thế về sau chắc chắn sẽ được quả Thánh Giải Thoát!”

Nhân đó A Nan Ða liền nhắc lại:

“- Bạch đức Thế Tôn! Nếu một người đàn bà có đủ những yếu tố như thế và người đàn bà ấy lại là Mahà Pajapati Gotamì, dì ruột, kế mẫu mà cũng là người đã nâng niu đức Thế Tôn từ tấm bé! Người đã nuôi dưỡng đức Thế Tôn bằng những giọt sữa của chính mình, khi đệ nhất hoàng hậu Màyà (mẹ ruột của Phật) băng hà. Một người đàn bà như thế có xứng đáng được đức Thế Tôn chấp thuận cho được xuất gia, lấy đời sống không gia đình làm phương tiện để noi gương và gìn giữ giới luật của đức Thế Tôn đã chỉ dạy hay không?”

Ở đây A Nan Ða hiển nhiên đã nêu lên hai lý do rất chính đáng. Lý do thứ nhất, một người đàn bà, nếu có chánh kiến, quyết tâm và trì chí cũng có thể đắc quả Giải Thoát trong kiếp này. Lý do thứ hai, hoàng hậu Màyà đang hội đủ những đức tính đó và bà lại có công lớn trong việc bảo toàn và dưỡng dục hoàng tử hiện thân của đức Phật, thì đối với một hiền mẫu như thế chỉ có một phẩm vị xuất gia trong Chánh Pháp mới có thể đền bù xứng đáng công ơn của bà.

Ðức Phật, trước sự “biện hộ” một cách chân chính của A Nan Ða đã cho phép mẫu hậu Mahà Pajapati Gotamì xuất gia. Ngài sau đó cũng cho phép A Nan Ða thành lập giáo hội nữ gìới, nhưng với những điều kiện gia nhập rất nghiêm nhặt!

Ðọc đến đây, chúng ta có cảm tưởng như A Nan Ða nhờ trí thông minh và khéo nói mà thay đổi được “tư tưởng” của đức Phật. Nhưng trong thực tế, nhất là trong chiều sâu, không ai có thể thay đổi được “ý định” của một bậc Toàn Giác cả. Bởi ý nghĩ của một vị Phật luôn luôn gắn liền với những sự thật rất vi tế. Vấn đề này không phải chỉ xảy đến với đức Phật Thích Ca, mà nó còn đã xảy ra cho các vị Phật trong quá khứ nữa! Và hầu hết chư Phật đều đã cho phép thành lập giáo hội ni giới.

Câu chuyện kế mẫu của đức Thế Tôn, hoàng hậu Mahà Pajapata Gotamì không được phép xuất gia khi chưa có sự can thiệp của A Nan Ða không có nghĩa là đức Phật không biết đến công ơn dưỡng dục của bà. Nhưng sự không chấp thuận một cách vội vã ngay lúc đầu để chứng minh rằng đức Phật là một bậc Toàn Giác và Ngài vốn biết trước mọi sự việc, nhất là biết trước một tai hại về lâu về dài cho Phật Giáo trong tương lai.

Bởi thế, sau đó đức Phật đã chuẩn định 8 điều kiện mà chỉ có những người đàn bà nào đầy đủ đức hạnh và thành tâm nhất mới có thể được chấp thuận để gia nhập ni giới. Tám đìều kiện này còn được xem như những giải pháp ngăn ngừa sự luyến ái giữa hai phái nam và nữ một cách dứt khoát và cần đuợc thi hành tuyệt đối nghiêm chỉnh.

Ðã thế, đức Phật còn ấn định rằng:”Hệ thống ni giới trong giáo pháp của Như Lai sẽ kéo dài một cách đứng đắn trong vòng 500 năm sau thôi”

Lời của dịch giả: Vấn đề tuổi thọ 500 năm của ni giới chỉ tìm thấy trong Tạng Luật (Vinaya Pitaka) chứ không tìm thấy trong Tạng Kinh (Suttanta Pitaka) hay Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka). Nhất là không có một chỗ nào trong kinh điển Pali (Phạn ngữ) ghi rõ tuổi thọ ấy kéo dài đến 1000 năm, như một số học giả nói! Hầu hết các nhà phê bình và khảo cứu Phật giáo từ xưa tới nay thường nhắc đến những hiện tượng suy đồi của giáo hội ni giới trong vòng 500 năm, hơn là xác chứng lời Phật nói về vấn đề thời gian. Nếu có sự khác nhau về tuổi thọ của hệ thống ni giới thì đó có lẽ là ý kiến của các tổ sư Phật Giáo sau nầy!

Về sau, khi đức Phật ban bố những nghiêm luật và nội quy cho đời sống ni giới, A Nan Ða đã hỏi đức Phật về phẩm cách của một sa môn xứng đáng hướng dẫn các hàng tỳ khưu ni, đức Thế Tôn đã trả lời rằng:

“- Sa môn nào biết thực hành đúng 8 quy luật mà Như Lai đã chế định là sa môn sẽ thay mặt Như Lai thuyết pháp đến các hàng tỳ khưu ni”

Tức là đức Phật đã không hạn chế vị bổn sư của các tỳ khưu ni nhất định phải là A La Hán, nhưng Ngài chỉ nhấn mạnh ở 8 phẩm cách. Tuy 8 phẩm cách ấy tượng trưng cho một bậc thánh, nhưng nếu một phàm tăng hội đủ những đức hạnh đặc biệt, như A Nan Ða chẳng hạn, cũng có thể hướng dẫn các hàng tỳ khưu ni được.

Tám phẫm cách ấy là:

1- Làm thầy dạy đạo cho các hàng tỳ khưu ni phải đủ đức hạnh (giới luật phải trong sạch).

2- Phải am hiểu Pháp bảo.

3- Phải thuộc lòng giới luật, nhất là giới luật tỳ khưu ni.

4- Phải có khả năng nói pháp vừa thanh nhã (không tục tỉu) vừa rõ ràng, dễ hiểu. Không được lầm lỗi trong sự phát âm (Vì cùng một chữ mà phát âm sai có thể hiểu ra nghĩa khác).

5- Phải biết dạy pháp đến các hàng tỳ khưu ni từ thấp tới cao, làm cho họ từ chưa hiểu đến hiểu rõ.

6- Phải được các hàng tỳ khưu ni đón mừng (tức không làm cho họ sợ) và kính mến! nhất là sa môn ấy khi có một đệ tử tỳ khưu ni phạm lỗi và bị ông rầy, sau đó không nên làm cho người phạm lỗi tiếp tục sợ hãi.

7- Phải là một sa môn từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ phạm giới tà dâm.

8- Phải là một sa môn đã thọ cụ túc giới (tức giới luật tỳ khưu) tối thiểu 20 hạ.

(Theo Anguttana Nikàya VIII 52 = Tăng Nhất A Hàm số VIII 52)

Và kể từ ngày ấy, vị tôn giả A Nan Ða là một trong những người đầu tiên có công sáng lập ra hệ thống ni giới, nên ông đã tìm mọi cách để thúc đẩy hệ thống nầy tiến mạnh trên Thánh Ðạo.

Đây cũng chính là lý do khiến cho A Nan Ða đã phải gặp phải một số phiền phức.

Có hai trường hợp các tỳ khưu ni đã bướng bỉnh chống lại đại Trưởng Lão Ca Diếp (Mahà Kassapa) để đòi nghe pháp của A Nan Ða (theo Samyutta Nikàya 16, 10,11 = Tạp A Hàm số 16, 10, 11)

Một trong hai trường hợp đó đã được đề cập qua trong chương hai, với tựa đề “A Nan Ða, một cái tên quen thuộc”. Theo sử chép thì kết quả của biến cố ấy là đã có hai tỳ khưu ni khó dạy hoàn tục. Và họ nêu lý do hoàn tục rằng: Họ đã không chịu nổi cảnh có một ông thầy (ám chỉ A Nan Ða) không biết chú ý đến họ như những con người, mà chỉ chú trọng đến họ như hai tâm hồn cần được cứu rỗi!

Nghiêm trọng hơn nữa là trường hợp của tỳ khưu ni tên Kosambi, một cái tên mà A Nan Ða chưa từng quen thuộc. Tỳ khưu ni này một hôm bỗng nhắn lời đến A Nan Ða rằng: Cô ta đang bệnh nặng, cần sự viếng thăm của ông. Sự thật cô đã thầm yêu trộm nhớ A Nan Ða, và chỉ muốn tạo dịp quyến rủ vị sa môn này. A Nan Ða khi biết rõ chuyện ấy, thay vì né tránh, ông đã giải quyết vấn đề một cách rất cao thượng.

A Nan Ða đến thẳng tư thất của tỳ khưu ni si tình kia, rồi ông giảng giải cho cô ta nghe rằng: xác thân này của ông vốn là sự hội hợp của những chất đáng nhờm gớm. Nhất thời, nó chỉ là giao điểm của ba nguồn đau khổ là tham sống, thèm khát, hưởng thụ và ngã chấp. Rồi ông phân tích hậu quả trầm luân của ba nguồn đau khổ ấy, để thức tỉnh người đàn bà tăm tối kia.

Ông nói: thứ nhất hễ ham sống thì cái chết sẽ làm cho ta đau khổ, mà cái chết không thể tránh được! Cái chết được biểu hiện bằng cái già và cái bệnh, mà cái già và cái bệnh cũng không thể tránh được! Khi người ta cảm thấy mình mỗi ngày một già thì người ta tự biết mình càng lúc càng tiến đến chỗ chết! Thứ hai: Hễ thèm khát hưởng thụ thì bất toại nguyện sẽ làm cho ta đau khổ, mà bất toại nguyện là một điều không thể tránh được, vì con người chỉ ngăn ngừa nổi ác nghiệp sắp tới (nhờ tinh tấn tu hành), chứ không ngăn ngừa được ác quả đã tạo! Khi người ta đối diện với một nghiệp quả đã tạo, dù lành hay dữ, sự thèm khát luôn luôn làm cho người ta đau khổ. Nếu là quả lành thì thèm khát mong được có nhiều hơn, còn nếu quả ác thì thèm khát mong được tránh khỏi! Thứ ba hễ ngã chấp thì vô thường sẽ làm cho ta đau khổ, mà vô thường là một định luật không ai có thể tránh được. Mặt trời buổi sáng mọc ở hướng đông rồi buổi chiều lặn ở hướng tây. Ngày qua tháng lại là tượng trưng chính xác nhất của định luật vô thường. Vô thường là yếu tố căn bản để làm cho cái “ngã tạm thời” không bao giờ thực sự tồn tại, chứ đừng nói chi đến việc hiện hữu lâu dài hay trường cửu.

Một bậc xuất gia chân chánh là người biết biến đổi ba ác pháp tham sống, thèm khát hưởng thụ và ngã chấp ấy ra thành ba thiện pháp là: Vô tư trước hai trạng thái sống và chết, không mắc dính trước mọi cám dỗ của dục lạc ở đời và niệm tưởng đến luật vô thường, mọi vật không ngừng biến đổi! Bậc xuất gia ấy sẽ thay thế sự ham sống bằng sự ham thích tịch tịnh, thay thế sự thèm khát hưởng thụ bằng sự ham thích phúc đức để tạo thiện nghiệp và thay thế sự ngã chấp bằng tính vô ngã đại đồng.

Nói cách khác là bậc xuất gia ấy biết đem sự sống của mình hòa với sự sống chung của muôn loài vạn vật, biết đem tính phát triển thiện hạnh của mình đóng góp vào sự tiến hóa chung của tất cả chúng sanh và biết đem cái bản vị tạm thời trong một kiếp người của mình làm ngọn đèn soi thấy lý vô ngã trong cái vòng sinh sinh diệt diệt.

Nghĩa là một bậc xuất gia như thế hằng sống trong Chánh Pháp. Và sự biết mình chính là một sức mạnh hộ trì cho trí huệ sáng suốt để dẹp bỏ mọi tà tư duy, nhất là tình dục, hầu đưa giác linh của họ nhập vào một phẩm hạnh thánh nhân, một phẩm cách nhằm đạt đến giảo thoát mọi đau khổ trong kiếp này và thoát khỏi cảnh tử sinh trong những kiếp sau!

A Nan Ða cũng nhấn mạnh rằng tình dục là nguyên nhân chính cắt đứt con đường giải thoát. Một bậc xuất gia mà để cho tình dục lộng hành trong tâm mình ví chẳng khác nào như người đi thuyền bị chảy nước mà không chịu kịp thời ngăn chận lại. Người đi thuyền đó trước sau gì cũng bị nhận chìm xuống đáy nước!…

Sau khi nghe những lời giảng dạy chân chính như thế, tỳ khưu ni suy tình Kosambi liền thức tỉnh. Cô lập tức rời khỏi giường (nơi mà trước đó chẳng bao lâu cô đã dùng làm chỗ khêu gợi) để đe đầu phủ phục trước mặt A Nan Ða, thành tâm nhận lỗi, rồi sám hối, yêu cầu A Nan Ða tha thứ!

A Nan Ða liền hoan hỉ trước lời sám hối của tỳ khưu ni, và khuyến khích cô rằng:” trong cộng đồng những người sống theo Bát Chính Ðạo, kẻ nào biết nhận lỗi và sám hối ăn năn là người sẽ tự tiến bộ, và sẽ đạt đến mục tiêu giải thoát!” (theo Anguttara Nikàya IV, 159: Tăng nhất A Hàm số IV, 159).

Câu chuyện nầy hiển nhiên đã chứng minh một cách hung hồn về khả năng cảm hóa (bằng thuyết pháp đúng lúc và hợp hoàn cảnh) của A Nan Ða, đối với những kẻ tăm tối, hầu đưa họ ra khỏi vô minh và dục vọng.

Một câu chuyện khác nói về các vương phi của vua Ba Tư Nặc (Pesenadi). Những phu nhân nầy nghĩ rằng:”Khó mà thấy được đức Phật ra đời! Khó mà sinh được làm người. Khó mà có được tinh thần minh mẫn trong một thân thể khỏe mạnh! Ấy thế mà chúng ta đã hội đủ ba điều kiện nầy, chúng ta vẫn không tự do vào chùa nghe pháp được!”

Các vương phi than phiền như thế, vì theo phong tục thuở bấy giờ: Tất cả các chánh cung thứ hậu và thị nữ của một nhà vua phải suốt đời ở trong cung cấm, như chim lồng cá chậu. Họ chỉ được nhìn thấy Ðức Phật hay chư tăng thuyết pháp khi họ tùy tùng theo đức vua, chứ họ không được đi chùa lễ bái bất cứ lúc nào họ muốn như người nam giới.

Mặc dù sống trên nhung lụa, nhưng những sự cao sang không mang lại hạnh phúc tinh thần cho họ. Họ bèn kéo nhau đến yết kiến đức vua, và yên cầu nhà vua thỉnh Phật hay một sa môn, nào đầy đủ phẩm hạnh vào cung thuyết pháp. Vua Ba Tư Nặc dĩ nhiên nhận lời, rồi yết kiến Ðức Phật, trình bày những mong ước của các nàng hoàng hậu.

Ðức Phật nghe xong, thoạt tiên ngài đề nghị một đệ tử tại gia là bậc đã đắc quả A Nan Hàm đi làm công tác đó. Nhưng thánh nhân cư sĩ ấy đã từ chối, vì cho rằng:”Hãy để cho một bậc xuất gia thuyết pháp thì dễ cảm hóa người đời hơn, nhất là người đời ấy là những bậc phu nhân quyền thế!”

Sau đó vua Ba Tư Nặc bèn thuật lại với các nàng phu nhân về lý do từ chối của vị thánh nhân cư sĩ nọ rồi yêu cầu họ hãy hội ý cùng nhau để đề nghị sa môn nào là bậc xứng đáng nhất vào cung thuyết pháp.

Tức thời các phu nhân liền suy nghĩ rằng “chỉ có sa môn A Nan Ða là người gìn giữ kho tàng pháp bão!”, rồi họ đồng thanh yêu cầu nhà vua mời A Nan Ða vào cung thuyết pháp.

Ðức Thế Tôn dĩ nhiên đã chấp nhận lời yêu cầu của nhà vua. Và kể từ đó A Nan Ða là người thường xuyên vào cung thuyết pháp, hướng dẫn đạo lý cho chư vị phu nhân của đức vua Ba Tư Nặc.

Một hôm trong cung vua bổng bị kẻ trộm lấy mất một vương miện bằng ngọc quí giá. Ngự lâm quân lục xét khắp nơi, mà vẫn không tìm ra. Tất cả thứ phi, cung tần, mỹ nữ trong cung cấm đều hồi hộp sợ sệt, lo ngại mình sẽ bị nghi oan…

Khi A Nan Ða vào cung thuyết pháp như thường lệ, thì thấy toàn thể “tín nữ hoàng gia” vẻ mặt phiền muộn, không vui tươi nghe pháp như trước nữa. Ông bèn hỏi nguyên nhân thì biết được tự sự.

Bằng một tâm từ bi, A Nan Ða vội đến yết kiến đức vua, và hiến cho nhà vua một phương pháp để vương gia thu hồi chiếc vương miện bằng ngọc quí giá ấy, mà không gì phẩn nộ gây ra ác nghiệp (ý nói hành hình kẻ trộm…). Ðồng thời để tạo lại bầu không khí êm ấm trong hoàng cung, hầu các phu nhân, vương phi có thể yên tâm nghe pháp.

A Nan Ða đã đề nghị với vua Ba Tư Nặc như thế nầy:

Quốc vương phải ra lệnh cho quân lính không được lục xét bất kỳ ai trong cung cấm nữa. Ðoạn hoàng gia cần tuyển chọn, thợ khéo dựng lên một chiếc lều lớn, chỉ có một cửa vào và một cửa ra, tại trung tâm vườn ngự uyển. Trong lều có một chiếc bình đựng nước cổ rất cao. Bất cứ ai làm việc trong hoàng cung, cũng phải vào lều rữa tay trong chiếc bình ấy, để chứng minh sự “thành thật” của mình một lần theo thứ tự, và cấm hai người vào lều cùng một lúc. Ðây chính là cơ hội để cho kẻ tham lam biết ăn năn, có thể dấu chiếc vương miện trong mình rồi đem bỏ vào trong đáy bình nước ấy, mà không sợ bị bắt quả tang, đưa đến sự mất tánh mạng.

Kết quả, chiếc vương miện bằng ngọc của vua đã được tìm thấy trong chiếc bình đựng nước “thành thật” nầy! Và khung cảnh vui tươi của mọi người liền trở lại trong cung cấm! Tất nhiên kẻ trộm không ai khác hơn là một trong những vương phi, đã ăn năn, đem trả lại vật quí, và được tránh khỏi tội chết! (còn chiếc bình cao cổ để chứng minh rằng không ai có thể đụng tay tới đáy để có thể nghi rằng người vào lều sau mình, hay trước mình là kẻ gian cả!)

Diệu kế nầy càng khiến cho tên tuổi của A Nan Ða, vốn đã được nhiều người biết đến trở nên vang danh hơn nữa. Riêng trong hàng ngũ Phật Giáo thì A Nan Ða đã được tất cả huynh đệ khen ngợi như một người biết tái lập sự an vui bằng một phương pháp sáng suốt, cứu rỗi được những ác nghiệp đặc biệt! (theo Jàtaka n.92: Túc sinh số 92).

Và để tạm kết thúc chương nói về “sự liên hệ của A Nan Ða đối với nữ giới “soạn giã xin thuật lại mẫu đối thoại sau đây giữa A Nan Ða với Ðức Phật, không bao lâu trước khi Phật nhập diệt:

“Bạch Ðức Thế Tôn! Sau khi Ðức Thế Tôn nhập diệt, chúng đệ tử phải đối xử với phái nữ, nhất là đối xử với ni giới, như thế nào?”

Phật dạy:

“Các ông đừng nhìn lên thân thể họ!”

A Nan Ða hỏi:

“Nhưng nếu một người nữ đến quá gần một sa môn thì phải làm sao?”

Phật lại dạy:

“Các ông đừng tự mình mở lời trước!”

A Nan Ða tiếp:

“Trường hợp một người nữ đến thật gần một sa môn rồi bắt đầu gợi chuyện?!”

Phật nêu phương pháp

“Khi nghe một người đàn bà nói chuyện, các ông phải tuyệt đối cảnh giác, nhớ lại ý niệm ghê sợ và hổ thẹn tội lỗi, đồng thời xử dụng thiền định, nhất là phẩm cách biết mình!” (theo Digha Nikàya 16: Trường A Hàm số 16)

Những câu hỏi nêu trên đã được chính A Nan Ða nêu lên khi ông chắc rằng: Ðức Phật sắp bước vào Niết Bàn. Và sau đó ông còn nhắc lại những lời sau cùng ấy với mọi huynh đệ trong khi chuẩn bị làm lễ hoả táng.

Trên thực tế, mối liên hệ giữa các hàng sa môn với những tỳ khưu ni, cũng như mối liên hệ giữa các hàng tỳ khưu tăng với những tín nữ, đối với A Nan Ða trong suốt 25 năm trường, dưới sự hướng dẫn của Ðức Phật, đã không là vấn đề đặc biệt cho lắm! Ðiều đáng nhấn mạnh ở đây là A Nan Ða đã cố ý nêu lên những câu hỏi như thế, khi Ðức Phật chưa nhập diệt, là để được nghe chính Ðức Phật truyền dạy những điều thực tế sau cùng.

Vả, A Nan Ða tuy là một sa môn luôn luôn sống trong sự tự biết mình, nhưng những sự khêu gợi của phái nữ, A Nan Ða vốn đã nhiều lần đối diện. Và sự cảnh cáo của Ðức Phật trước khi cho phép thành lập hệ thống Ni Giới, A Nan Ða cũng chưa quên (nhất là lời tuyên đoán của Phật về tuổi thọ của cộng đồng nữ tu trong Phật Giáo chỉ có thể trong sạch khoảng 500 năm sau mà thôi!) Thành thử, đã từ lâu A Nan Ða thầm lo ngại về tương lai của Phật Giáo. Rồi vì lo ngại như thế, nên ông mới đặt ra những câu hỏi nêu trên đến Ðức Phật hầu xem nó, không những như những giáo huấn sau cùng, mà còn tái xác nhận thánh ý của Ðức Phật, về sự hiện hữu của phái nữ trong cộng đồng tăng lữ, để lưu lại một lề luật chánh truyền về sau, cho những người kế nghiệp trông coi hệ thống nữ tu cho đến hết 500 năm đã định.

Post Comment