Bài Thứ 2. Tâm chơn như

Phật Học Phổ Thông quyển 3
Tác giả : Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Nhà xuất bản :

Bài Thứ 2. Tâm chơn như

A.NÓI RÕ NGHĨA CHÁNH

CHÁNHVĂN

Cáitâm này (chúng sanh tâm) có hai phần: I. Tâm chơn như, II. Tâmsanh diệt. Hai tâm này không rời nhau và đều bao trùm tấtcả pháp.

LƯỢCGIẢI

Chươngnày giải thích tâm chúng sanh là pháp Đại thừa. Pháp Đạithừa có hia phần: Chơn như và Sanh diệt. Chơn như là”thể” rộng lớn của tâm; Sanh diệt là “Tướng”và “Dụng” rộng lớn của tâm. Phải phân chia làm haiphương diện như vậy, mới rõ được Thể, Tướng và Dụngcủa tâm.

Nếuđứng về “Thể chơn như”, thì suy nghĩ không trúng,luận bàn chẳng nhầm, lìa các văn tự, ly tất cả tướng;như thế làm sao có các pháp sai biệt được. Bởi thế nênphải nói đến Tướng và Dụng là “môn sanh diệt”mới rõ được hành tướng sai biệt của “Tâm chúngsinh”.

Chơnnhư là “Thể”, còn Sanh diệt là “Tướng” và”Dụng”. Tướng và Dụng không rời Thể, Thể khôngrời Tướng và Dụng; cũng như nước không rời sóng, sóng khôngrời nước. Bởi Thể, Tướng và Dụng không rời nhau, nênmỗi một phần đều bao hàm được tất cả pháp.

VìThể và Dụng không rời nhau, nên đứng về phần Chơn như màluận, thì tuy “thanh tịnh bất biến”, mà vẫn tuỳduyên sanh diệt; còn đứng về phần Sanh diệt mà xem, thì tuy”tuỳ duyên sai biệt” mà vẫn nhưnhư bất biến.
***

I.Tâm chơn như

CHÁNHVĂN

TâmChơn như là cái tâm tánh bất sanh bất diệt. Thể và Tướngnó to lớn bao trùm tất cả các pháp (nhứt pháp giới đạitổng tướng pháp môn thể).

Sởdĩ các pháp sai khác là do vọng niệm; nếu rời vọng niệmthì không còn các cảnh tướng sai khác. Bởi thế nên tấtcả pháp từ hồi nào đến giờ, không thể dùng danh tự đểkêu gọi, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể dùngtâm suy nghĩ được, không có biến đổi và cũng không pháhoại vì nó rốt ráo bình đẳng, chỉ có một “Tâm Chơnnhư” mà thôi.

LƯỢCGIẢI

TâmChơn như này, tánh không sanh diệt và bao trùm tất cả nhơnquả, thánh phàm, y báo chánh báo …Bởi thế nên nguyên vănchữ Hán gọi là “nhứt pháp giới đại tổng tướng phápmôn thể”.

Vìvọng niệm nên thấy có tất cả các pháp sai khác; cũng nhưvì mắt nhặm nên thấy có hoa đốm giữa hư không. Nếu nhưlìa vọng nirệm rồi, thì không có tất cả cảnh giới sai khácsai khác, mà chỉ còn một “Tâm Chơn như”; cũng nhưmắt hết nhặm thì chỉ còn hư không một màu trong tịnh.

Bởitất cả pháp là “Tâm Chơn như”, nên không thể pháhoại, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể dùng danhtự để kêu gọi và cũng không thể dùng tâm suy nghĩ được.Từ hồi nào đến giờ, nó rốt ráo bình đẳng, không có saikhác. Bởi thế nên trong Khế kinh chép:

“Thịpháp trụ pháp vị

Thếgian tướng thường trụ”

Nghỉalà: Pháp nào vẫn an trụ địa vị của pháp nầy; tướngthế gian là tướng thường trụ.

GIẢIDANH TỪ

TâmChơn như: Vì tâm này không hư ngụy, nên gọi là “Chơn”,không bị thời gian thay đổi, không gian chuyển dời, từhồi nào đến giớ nó vẫn như thế, nên gọi là “Như”.Tâm Chơn như cũng gọi là “Chơn tâm” hay “Viên giác”.

Nhứtpháp giới đại tổng tướng pháp môn thể: Câu này nghĩa lýrất sâu rộng, xin giải sơ lược: Tâm Chơn như là Thể chungcủa “Nhứt pháp giới”._Chữ “Nhứt” là chỉcho sự bình đẳng bất nhị, thuộc về lời nói ngăn chấp,chớ không phải lời nói tiêu biểu. _Chữ “Giới” làchỉ cho “tâm Chơn như” này, nó là “nhơn” là”giống” là “bản năng” sanh ra tất cả các pháp,nên gọi là “nhứt pháp giới”. Nhứt pháp giới là toàntánh của vũ trụ. Ở nơi nhứt pháp giới này, có thể phânra tổng tướng (thể) và biệt tướng (muôn pháp sai khác).

TâmChơn như là “Tổng tướng” (tướng chung) của tấtcả pháp; vì thể tánh nó bình đẳng song cũng tóm thâu tấtcả tướng, nên gọi là “Đại”.

Chữ”Pháp” nghĩa là:”giữ gìn tự tánh và làm cho ngườihiểu biết”. Chữ “môn” là nghĩa ra vào thôngsuốt. Tất cả chúng sanh có thể do pháp môn này tu hành, đếnđược mục đích cứu cánh; nếu rời “Đại tổng tướngpháp môn” này, thì không thể đạt đến quả vị Phật.Nói tóm lại:

Nhứtpháp giới là “Thể” của tâm Chơn như.

Đạitổng tướng là “Tướng” của tâm Chơn như.

Phápmôn là “Dụng” của tâm Chơn như.

CHÁNHVĂN

Tấtcả những lời nói, đều do vọng niệm phân biệt mà sanh,chỉ do giả danh chớ không thật thể . Cho đến danh từ Chơnnhư cũng không thực; chẳng qua là một danh từ túng cùngcủa lời nói, dùng để trừ bỏ các danh từ khác (vọng) màthôi (nhơn ngôn khiển ngôn). Song cái “Thể” của Chơnnhư không thể trừ bỏ và cũng không thể dựng lập. Phảibiết: Tất cả các pháp cũng không thể trừ bỏ vì đều là”Chơn” vậy, và cũng không thể dựng lập, vì đều là”Như” vậy. Bởi tất cả các pháp đều là Chơn như,nên không thể nói bàn và suy nghĩ được.

LƯỢCGIẢI

Tấtcả những lời nói phô, đều do vọng niệm phân biệt; danhtừ chỉ là hư giả, chớ không có thật thể. Cho đến cáidanh từ Chơn như cũng là hư giả mà thôi. Danh từ Chơn nhưhay Phật là danh từ túng cùng trong các danh từ tạm đặt ranhư thế để trừ các danh từ vọng nhiễm của thế gian. Cũngnhư ông thầy giáo, tạm dùng tiến gõ bảng để trừ tiếngồn của học sinh (dĩ ngôn diệt ngôn). Đến khi tiếng ồncủa học sinh hết, thì tiếng gõ bảng của thầy giáo cũngkhông còn. Cũng như khi vọng mất, chúng sanh hết, thì Chơn nhưhay Phật cũng chẳng còn.

Song,chỉ bỏ cái danh từ (Chơn như) hư giả, chớ thể tánh chơnnhư thì không thể bỏ hay lấy. Cho đến các pháp cũng khôngthể bỏ và lấy được. Vì các pháp đều là “Chơn”,nên không thể bỏ, và “Như” nên không thể lấy.Bởi các pháp đều chơn như, nên không thể dùng lời nóiluận bàn hay tâm suy nghĩ đền được.

Tómlại, vì vọng niệm phân biệt, nên thấy có các pháp saibiệt. Nếu vọng niệm phân biệt hết, thì tất cả các phápkhông còn những tướng sai biệt, mà đều là Chơn như. Bởicác pháp đều là chơn như, nên nói năng không trúng, suy nghĩchẳng nhầm và cũng không thể lấy hay bỏ được.

CHÁNHVĂN

Hỏi:_Nếu “Chơn như”, mà không thể dùng lời nói luận bànhay tâm suy nghĩ, thì chúng sanh làm sao tuỳ thuận và ngộnhận được?

Đáp:_Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói bàn, mà khôngcó “năng nói” và “sở nói”; tuy có suy nghĩ, màkhông có “năng suy nghĩ” và sở “suy nghĩ”, thìngười ấy được tuỳ thuận Chơn như.

Cònngười nào lìa các niệm (vọng niệm) thì người đó đượcnhập Chơn như.

LƯỢCGIẢI

Đoạnnày Luận chủ lập lời vấn đáp, để giải thích sự nghingờ của độc giả.

Hỏi:_ Nếu Chơn như mà không thể dùng lời nói luận bàn và tâmsuy nghĩ được thì, chúng sanh làm sao tuỳ thuận và ngộnhập Chơn như?

Đáp:_Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói năng suy nghĩ,mà không chấp nơi nói năng suy nghĩ, thì người đó đượctuỳ thuận Chơn như. Tiến lên một từng nữa, nếu người nàolìa các vọng niệm, thì người ấy nhập được Chơn như.Nghĩa là “Vọng” hết, thì “Chơn” hiện. Đoạnnày đồng một ý nghĩa với bốn chữ “bất tuỳ phânbiệt” trong Kinh Lăng Nghiêm.

CHÁNHVĂN

Lạinữa, nếu căn cứ trên danh từ (ngôn thuyết) mà phân biệt,thì chữ Nhơn như có 2 nghĩa:

1.THẬTKHÔNG (như thật không), tức là chỉ nói đến cáithể tánh rốt ráo chơn thật của Chơn như. Nghĩa là: từhồi nào đến giờ, Chơn như không có các tâm niệm hưvọng, không có tất cả các tướng sai biệt, nói chung làthật không có các pháp tạp nhiễm.

Phảibiết: Chơn như phi tướng “có “, phi tướng “không”;phi tướng “chẳng phải có”, phi tướng “chẳngphải không”; phi tướng “cũng có và cũng không”;phi tướng “một”, phi tướng “khác”; phi tướng”chẳng phải một, chẳng phải khác”; phi tướng”cũng một cũng khác”.

Nóitóm lại, vì chơn như không có tất cả các vọng niệm phânbiệt của chúng sanh, nên gọi rằng “thật không”.Nếu khi vọng tâm phân biệt hết rồi thì cũng không còn cáigì gọi là”không” nữa.

LƯỢCGIẢI

Đứngvề phương diện lý tánh tuyệt đối, thì Chơn như khôngthể kêu gọi là gì được (ly danh tự tướng), không thể dùnglời nói luận bàn (ly ngôn thuyết tướng) và cũng không thểdùng tâm suy nghĩ được (ly tâm duyên tướng). Song, nếu căncứ trên văn tự lời nói mà luận, thì Chơn như có hai nghĩa:1. Thật không và 2. Thật có.

Đoạnnày nói về nghĩa”thật không” (ly nhứt thế tướng),tức là chỉ cho cái “thể Chơn như”, từ hồi nào đếngiờ, nó không có các vọng niệm, không có các nhiễm pháp vàkhông có các tướng sai khác. Nó phi tất cả các tướng: Có,không, chẳng phải có, chẳng phải không, cho đến phi tướngđồng, tướng dị và tướng không đồng không dị…

Nóitóm lại là nó không có tất cả vọng niệm phân biệt củachúng sanh, và khi rời các vọng niệm rồi, thì cái gọi là”không” đó cũng không còn.

CHÁNHVĂN

2.THẬT CÓ (như thật bất không)

tựthể Chơn như, thật có đủ công đức vô lậu (tức nhứtthế pháp). Bởi Chơn như không có các vọng, nên tức là Chơntâm. Cái Chơn tâm này thường còn không biến đổi và đầyđủ các pháp thanh tịnh; nên nói “thật có”(bất không).

Nhưngcái cảnh giới “thật có” này, cũng không có hình tướnggì để nắm lấy được, vì nó lìa cá vọng niệm, nên chỉcó người tu chứng mới biết được mà thôi.

LƯỢCGIẢI

Trongđoạn này nói: Chơn như có hai nghĩa, tức là ý nói Chơn nhưcó hai thứ. _ Đoạn trên nói về phương diện “thể tánh”của Chơn như, thì không có các vọng niệm, không có các phápnhiễm ô, tức là “ly nhứt thế tướng”, nên nói”thật không”.

Đoạnnày nói về phương diện “tướng dụng” của Chơn như,thì đầy đủ vô lượng hằng sa công đức, thế là”tức nhứt thế pháp”, nên nói “thật có”. Nhưngcảnh giới “thật có” này, không có hình tướng gìđể chỉ bày ra được, vì đã lìa các vọng niệm phânbiệt, nên chỉ có người chứng ngộ mới biết được thôi.

Post Comment