Bài Thứ 9. Nói về nghĩa “Bất giác” Bốn món huân tập (Tiếp Theo)

Phật Học Phổ Thông quyển 3
Tác giả : Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Nhà xuất bản :

Bài Thứ 9. Nói về nghĩa “Bất giác” Bốn món huân tập (Tiếp Theo)

k.NÓI VỀ BỐN MÓN HUÂN TẬP

(tiếp theo và hết)

CHÁNHVĂN

Nóivề chơn như (pháp thanh tịnh)huân tập. Chơn như huântập vô minh, có hai phần:

1.Thể tướng chơn như huân tập

2.Diệu dụng chơn như huân tập.

Nóivề thể tướng chơn như huân tập vô minh: tất cả chúngsanh từ vô thỉ đến nay, đều saün có bản thể chơn như (tánhPhật) vaø có đủ các công dụng (diệu dụng chơnnhư )không thể nghĩ bàn, sanh ra các cảnh giới. Do thể tướngvà công dụng của chơn như (tánh Phật)thường huântập vô minh, nó thúc đẩu chúng sanh chán khổ sanh tử, cầuvui Niết bàn, và tự tin mình có saün chơn như (tánhPhật) nên tự phát tâm tu hành để thành Phật.

LƯỢCGIẢI

Trongkinh chép: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật “(khả năng thành Phật). Tánh Phật này, cũng gọi là chơn như,Pháp tánh hay Chánh nhơn Phật tánh v.v…Nhờ saün có tánhPhật (giống Phật) nên chúng sanh tu hành mới được thànhPhật.

TánhPhật này thanh tịnh vô lậu, và có diệu dụng không thể nghĩbàn. Nó thường huân tập vô minh, làm cho chúng sanh tự tin mìnhcó khả năng thành Phật, nên phát tâm tu hành, chán khổ sanhtử cầu vui Niết bàn. Nếu không nhờ tánh Phật này thúcgiục, thì chúng sanh không biết chừng nào mới phát tâm tu hành,cầu quả giải thoát.

CHÁNHVĂN

Hỏi:_Nếu tất cả chúng sanh đều saün có Chơn như (tánhPhật) và đồng huân tập vô minh thì tất cả chúng sanhphải đồng thời tự tin minh có chơn như (tánh Phật),đồngthời phát tâm tu các pháp lành và đồng thời chứng quảNiết bàn; tại sao có vô cùng sai khác: kẻ tin người không,kẻ tu trước, người tu sau, có kẻ đã nhập Niết bàn, cònngười chưa nhập?.

LƯỢCGIẢI

Dotrước nói: “Tất cả chúng sanh đều saün có tánh Phật,và nhờ tánh Phật này huân tập vô minh, nên làm cho chúngsanh nhàm cảnh khổ sanh tử, ưa vui Niết bàn v.v..” nênmới có câu hỏi này. Trong câu hỏi này có hai điều nghi:

ĐIềunghi thứ nhứt: chúng sanh đã saün có tánh chơn như, bình đẳngnhu nhau, tại sao lại có vô số những sự sai khác, không bìnhđẳng, như kẻ đần độn, người thông minh, kẻ chánh ngườità, kẻ tin người không v.v…

ĐIềunghi thứ hai: chúng sanh đã đồng nhờ chơn như huân tập vàovô minh, nên phát tâm tu hành v.v…Vậy thì phải đồng thờiphát tâm, đồng thời tự tin mình có tánh Phật và đồngthời tu, đồng thời chứng v.v…tại sao có vô cùng nhữngsự sai khác, không bình đẳng, như kẻ tu trước người tusau, kẻ mau ngộ đạo người chậm chạp v.v…

CHÁNHVĂN

Đáp:_Từ hồi nào đến giờ chơn như vẫn một; song vô minh có vôlượng vô biên, tánh chất khác nhau, dày mỏng không đồng.

Dovô minh này mà sinh ra các phiền não sai khác (Sở tri chướng)nhiều hơn số cát sông Hằng. Cũng do vô minh này mà sanh racác phiền não sai khác, như ngã kiến, ái nhiễm v.v…(phiềnnão chướng).

Tómlại, tất cả phiền não (phiền não chướng, sở tri chướng)đều do vô minh sanh khởi, hoặc trước hoặc sau vô cùng saikhác.

(Đoạnnày đã nói “vô minh sai khác không đồng”, tiếp theođây sẽ nói “ngoại duyên không phải một”).

Lạinữa, trong Phật pháp nói: “Tất cả các pháp đều do nhơnduyên sanh; nhơn duyên đầy đủ mới được thành tựu”.

Thínhư chất lửa trong cây là “Chánh nhơn” của lửa.Song, nếu không có “trợ duyên” là người biết lấylửa, và các phương tiện như bùi nhùi, (bổi) công ngườicọ sát v.v…thì lửa kia không thể tự phát sanh ra được.

Cũngvậy, chúng sanh tuy saün có tánh Phật (chơn như)là cái”nhơn chánh” để thành Phật; song nếu không có”ngoại duyên” là gặp các đức Phật, Bồ Tát vàThiện tri thức v.v…dẫn dắt chỉ dạy cho phương pháp tu hành,thì hành giả cũng không thể tự mình đoạn trừ phiền nãovà tu chứng Niết bàn được.

Tráilại, nếu chỉ có “ngoại duyên” mà không có chơn nhưlà cái “nhơn chánh” để thành Phật, huân tập bêntrong, thì hành giả cũng không thể tự mình chán khổ sanhtử, cầu vui rốt ráo Niết bàn được.

Bởithế nên, phải có nội nhơn và ngoại duyên đều đầy đủ;nghĩa là bên trong nhờ tánh Phật (chơn như) làm “chánhnhơn” huân tập; bên ngoài nhờ đức từ bi và đạinguyện của Phật, Bồ Tát giúp hộ làm “trợ duyên”,thì hành giả mới chán khổ sanh tử, tin có cõi Niết bàn vàphát tâm tu tập các pháp lành. Nhờ tu tập các pháp lành đượcthuần thục, nên hành giả mới gặp chư Phật Bồ Tát thịhiện, chỉ dạy những điều lợi lạc. Lúc bấy giờ hànhgiả mới tinh tấn tu hành, để đến đạo quả Niết bàn.

LƯỢCGIẢI

Tấtcả chúng sanh đều có tánh Phật (chơn như) và đồng huântập vô minh v.v…thì phải đồng phát tâm, đồng tu và đồngchứng như nhau. Song, có sự vô cùng sai khác, không đồng nhaunhư kẻ phát tâm tu hành, người huỷ bán, kẻ đã thànhPhật, người còn trần luân là vì hai nguyên nhơn sau này:

1.Vô minh không đồng. _ Mỗi chúng sanh có rất nhiều lớp vôminh: có thứ vô minh thuộc về căn bản, có thứ vô minhthuộc về chi mạt; có thứ sâu dày, có thứ mỏng cạn, cóthứ thô phù dễ trừ, có thứ tế nhị khó đoạn. Do cácthứ vô minh này sanh ra hằng hà sa số phiền não. Nhưng trongsố phiền não này, tóm lãi có hai chướng: phiền não chướngvà sở tri chướng (cũng gọi là trần sa hoặc).

Vìđoạn trừ vô minh có khó dễ, mau chậm khác nhau, nên chúngsanh phát tâm tu hành và chứng quả không đồng thời.

2.Hoàn cảnh không đồng._ Mỗi chúng sanh đều có mỗi hoàncảnh khác nhau, hoàn cảnh tức là các duyên chung quanh.

Chứngđược đạo quả vô thượng Bồ Đề, phải có đủ cả nhơnvà duyên. Nhơn là chơn như hay Phật tánh, huân tập bên trong;Duyên là những hoàn cảnh giúp đỡ bên ngoài, như Phật, BồTát và Thiện hữu tri thức dạy bảo dẫn dắt v.v…Nếuchỉ có Nhơn mà thiếu Duyên, hoặc có Duyên mà thiếu Nhơn,thì cũng không thành.

Thínhư trong cây có saün chất lửa là “nhơn chánh”; songphải nhờ cát “trợ duyên” là hoàn cảnh bên ngoài,như người biết lấy lửa và bổi v.v…thì lửa ấy mới phátsanh được. Nếu thiếu một (Nhơn hoặc Duyên) thì lửa khôngthể xuất hiện được.

Bởihoàn cảnh của mỗi chúng sanh không đồng nhau, nên sự pháttâm tu hành và chứng quả không thống nhất. Đây là lý dothứ hai.

Phậttánh có 3:

1.Chánh nhơn Phật tánh: Chơn như là cái nhơn chánh để thànhPhật; dụ như chất lửa saün có trong cây.

2.Duyên nhơn Phật tánh: Phật, Bồ Tát , Thiện hữu trithức và kinh sách v.v…là trợ duyên để thành Phật; dụ nhưngười biết lấy lửa và bổi v.v…

3.Liễu nhơn Phật tánh: Chánh nhơn và trợ duyên đều đầyđủ, làm cho hành giả phát hiện được (liễu ngộ) tánhPhật của mình; dụ như lửa trong cây đã phát cháy.

CHÁNHVĂN

Nóivề diệu dụng chơn như huân tập:

Đâylà các trợ duyên bên ngoài của hành giả; có rất nhiềuthứ trợ duyên, nhưng tóm lại có 2 loại:

1.Duyên sai biệt, 2. Duyên bình đẳng.

1.Duyên sai biệt: Từ khi mới phát tâm cầu đạo, cho đến thànhPhật, trong khoảng thời gian ấy, hành giả hoàn toàn nhờ chưPhật và Bồ Tát gia hộ cho trên đường tu hành. Vì tâm đạibi, nên Phật và Bồ Tát hoặc hiện làm người thân thuộc,như cha mẹ (để dạy bảo hành giả) hoặc hiện làmThiện hữu tri thức (để nhắc nhở), hoặc hiện làmngười tôi tớ hầu hạ(để khuyên lơn), hoặc hiện làmkẻ oan gia (như Đề bà đạt da v.v.. để xúc khích)hoặc dùng Tứ nhiếp pháp (để cảm hoá), cho đến làmkhông biết bao nhiêu công hạnh, để huân tập cho hành giả;làm cho hành giả hoặc nhớ nghĩ công đức của các Ngài,hoặc thấy hình tướng, hoặc nghe thuyết pháp, mà đượclợi ích và tăng trưởng căn lành.

Cácduyên sai khác này, chia làm hai loại:

a)Duyên gần, làm cho hành giả mau đặng Bồ Đề (hiệntiền chứng đạo).

b)Duyên xa, làm cho hành giả về sau mới đặng tế độ(nhiều kiếp về sau mới đặng đạo).

Haimón duyên gần và xa này, lại chia làm hai loại nữa: Duyên làmcho hành giả được thọ đạo pháp và Duyên làm cho hànhgiả tăng trưởng đạo hạnh.

LƯỢCGIẢI

Đoạnnày nói về diệu dụng chơn như của chư Phật và Bồ Tát huântập cho chúng sanh. Chư Phật và Bồ Tát đã chứng đượcbản thể chơn như, nên tự nhiện có diệu dụng không thểnghĩ bàn.

Dolòng Đại bi và Đại nguyện của chư Phật và Bồ Tát, tuỳtheo trình độ của chúng sanh phát tâm cầu đạo, nên từdiệu dụng của chơn như, ứng hiện ra các thân hình v.v.. làmtrợ duyên bên ngoài, để giúp cho chúng sanh được thành đạoquả. Nhưng các duyên này, có chia làm hai loại:

1.Duyên sai biệt: Do trình độ của chúng sanh không đồng,sự phát tâm của mỗi người mỗi khác, nên chư Phật vàBồ Tát thị hiện phải có sai khác (Duyên sai biệt).

2.Duyên bình đẳng: Do đồng thể đại bi, nên chư Phật vàBồ Tát phát nguyện độ sanh, bình đẳng làm lợi ích.

Đoạnnày nói về “Duyên sai biệt”.

ChưPhật và Bồ Tát thị hiện rất nhiều phương tiện để độsanh; nhưng không ngoài 5 việc như sau:

a)Vì muốn dùng từ ái, để dẫn dắt hành giả, nên hiện làmcha mẹ.

b)Vì muốn dùng việc hầu hạ, để gần gũi hành giả đặngkhuyên lơn, nên hiện làm kẻ tôi tớ.

c)Vì muốn dùng việc cộng sự, để giúp cho hành giả, nênhiện làm Thiện hữu tri thức.

d)Vì muốn xúc khích hành giả trên đường tu hành, nên hiện làmkẻ oan gia (như Đề bà đạt da).

đ)Vì muốn cảm hoá người, nên dùng Tứ nhiếp pháp.

Tấtcả những phương tiện này, đều do lòng từ bi của Phật vàBồ Tát mà khởi hiện, làm trợ duyên để huân tập cho hànhgiả tăng trưởng căn lành và được nhiều lợi ích.

Cácduyên sai biệt này chia làm 2 loại:

1.Duyên gần; nghĩa là hành giả sớm được tế độ. Nhưkhi Phật còn tại thế, những chúng sanh được hoá độ.

2.Duyên xa; nghĩa là hành giả chậm được tế độ. Như khiPhật Đại Thông Trí Thắng ra đời, đức Thích Ca làm đệtử Ngài, cho đến thời kỳ này mới được thành Phật.

Tấtcả những phương tiện này, đều giúp cho hành giả được lãnhthọ đạo pháp và tăng trưởng đạo hạnh.

CHÁNHVĂN

2.Duyên bình đẳng: Tất cả chư Phật và Bồ Tát đều phátnguyện độ thoát tất cả chúng sanh. Do sức bi trí đồngthể tự nhiên huân tập, nên các Ngài thường hằng tuỳthuận chúng sanh nào muốn thấy Phật nghe Pháp, thì đều bìnhđẳng hiện ra để hoá độ, không bỏ một chúng sanh nào.Bởi thế nên chúng sanh khi ở trong thiền định, đều đượcbình đẳng thấy Phật.

LƯỢCGIẢI

ChưPhật và Bồ Tát đã chứng đến chỗ đồng thể (Phật vàchúng sanh đồng một bản thể) nên các Ngài tự thấy chúngsanh còn đau khổ, thì mình còn đau khổ; chúng sanh còn trầmluân, thì mình chưa giải thoát.

Bởithế nên từ chỗ đồng thể ấy, các ngài khởi Đại bi, Đạitrí và phát Đại nguyện. Như Ngài Địa tạng Bồ Tát thềrằng: “chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề. Địangục vị không, thệ bất thành Phật”.(nghĩa là độhết chúng sanh mới chứng Bồ Đề; nếu địa ngục còn tộinhơn, thì tôi thề không thành Phật).

ĐứcA Nan thề rằng:”Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập. Nhưnhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn”.Nghĩa là: Trong đời tội ác 5 trược, tôi thề xung phong vàotrước, để độ chúng sanh. Nếu còn một chúng sanh nào chưathành Phật, thì tôi thề không chịu chứng quả Niết bàn.

Dosự thúc dục của đồng thể bi trí này, nên các Ngài thườnghằng tuỳ thuận tất cả chúng sanh, bình đẳng hoá độ. NhưNgài Phổ hiền Bồ Tát thường hiện thân cho người thấy;đức Quán Thế Âm Bồ Tát thì ứng hiện 32 thân v.v..

Nếuchúng sanh nào tâm thanh tịnh, thì được thấy chư Phật vàbt (chúng sanh tâm nhược tịnh, Bồ Đề ảnh hiện trung).

Sựứng hiện ấy rất tự nhiên và bình đẳng, cũng như ao nướcnào trong, thì tự nhiên có trăng bình đẳng hiện vào.

Trênđã nói diệu dụng chơn như của chư Phật, Bồ Tát, khi đãđược hiển lộ rồi; còn chơn như của chúng sanh chưa hiểnlộ thì diệu dụng thế nào? Hãy xem đoạn dưới đây:

CHÁNHVĂN

Thểvà Dụng của chơn như huân tập, lại chia làm hai loại:

1.Chưa chứng nhập (tương ưng) chơn như.

2.Đã chứng nhập chơn như.

1.Chưa chứng nhập chơn như: Chúng phàm phu, hàng Nhị thừa vàcác vị Bồ Tát mới phát tâm (Tam hiền), do ý và ýthức huân tập mà phát tâm, và chỉ nương nơi sức tin củamình (tin tánh Phật ở nơi mình) mà tu hành; vì chưa chúngnhập (tương ưng) bản thể chơn như, nên chưa được vôphân biệt tâm (vô phân biệt trí, tức là căn bản trí);vì chưa đặng diệu dụng của chơn như, nên sự tu hành chưađược diệu dụng tự tại (sai biệt trí hay hậu đắc trí).

2.Đã chứng nhập chơn như: Các vị Bồ Tát đã chứng Pháp thân(THập địa Bồ Tát), chỉ nương nơi Pháp tánh(Pháplực) tu hành (thuận tánh khởi tu), tự nhiên huântập vào chơn như, nên diệt được vô minh. Các vị Bồ Tátnày đã được vô phân biệt tâm (căn bản trí), vì đãchứng nhập được bản thể chơn như; và đã được Saibiệt trí (Hậu đắc trí), vì đã được diệu dụngcủa chơn như (dữ Phật trí dụng tương ưng).

LƯỢCGIẢI

Thểchơn như không hai, song vì còn ở trong vỏ chúng sanh hay đãthoát ra ngoài, mà diệu dụng có rộng hẹp chẳng đồng; vìthế nên phân làm hai loại:

1.Người chưa chứng nhập được chơn như: chơn như cònbị các phiền não nhiễm ô triền phược (tại triền), chưađược hiển lộ; như vàng còn ở trong khoáng.

Chúngphàm phu, hàng Nhị thừa và các vị Bồ Tát còn ở địa vịtam hiền, đều từ vọng thức phân biệt mà phát tâm; do tựtin nơi mình có tánh Phật mà tu hành. Vì chưa chứng nhập”thể” và “dụng” của chơn như, nghĩa là chơnnhư còn bị triền phược, chưa được hiển lộ, nên cácvị này chưa được căn bản trí (vô phân biệt trí) và hậuđắc trí (sai biệt trí).

2.Người đã chứng nhập chơn như: chơn như đã đượchiển lộ ra khỏi vỏ phiền não nhiễm ô triền phược; nhưvàng đã ra khỏi khoáng.

Cácvị Bồ Tát từ Sơ địa cho đến Thất địa, mới nhập đượcbản thể chơn như; từ Bát địa đến Phật mới đượcDiệu dụng của chơn như. Các vị này, tuỳ theo tánh chơn nhưmà tu hành, nên diệt trừ được vô minh. Vì đã chứng nhậpThể và Dụng của chơn như, nên các vị Bồ Tát nầy đượchai món trí:

Cănbản trí (Vô phân biệt trí) và Hậu đắc trí (Sai biệt trí).

Đãnói nhiễm và tịnh huân tập nhau rồi, dưới đây sẽ nóinhiễm và tịnh, cái nào có cùng tận, cái nào không cùng tận.

Post Comment