Truyện Văn học

Những truyện cổ Việt Nam mang màu sắc Phật Giáo

Những truyện cổ Việt Nam mang màu sắc Phật Giáo
Tác giả : Lệ Như Thích Trung Hậu
Nhà xuất bản : Tôn Giáo
********

Phần 1

1. SỰ TÍCH CHÙA MỘT CỘT

Ngày xưa, vào đời Lý, vua Lý Thái Tôn là một tín đồ nhiệt thành của đạo Phật, theo phái Vô Ngôn Thông.
Thuở bấy giờ, đạo Phật đang độ bành trướng, riêng triều đại này nhà vua truyền xây 95 ngôi chùa mới, trùng tu lại tất cả những tượng Phật và trong các dịp lễ lớn này đều ban tha thuế cho toàn dân.
Năm 1049, một hôm vua Thái Tôn nằm mộng thấy Phật Bà Quan Âm hiện ra, đưa nhà vua đến một tòa sen rạng ngời ánh sáng. Sau khi tỉnh dậy, Vua thuật lại câu chuyện chiêm bao cho quần thần hay. Thiền tăng Thuyền Lã, vị sư đã hướng dẫn nhà sư trên đường đạo hạnh, bàn cùng nhà vua nên dựng một ngôi chùa để nhớ ơn đức Quan Âm.
Chùa Diên Hựu được dựng lên theo hình hoa sen, ở trên một cái cột lớn độc nhất giữa một cái ao trồng toàn sen gần kinh đô. Ngôi chùa kiến trúc đặc biệt theo nghệ thuật Đại la đời nhà Lý, tục gọi là chùa Một Cột. Ngày nay vẫn còn ở đất cố đô Thăng Long, ghi lại cuộc gặp gỡ kỳ ảo giữa ông vua mộ đạo với Phật Bà Á đông[1].
Khảo dị:
Chùa một cột ở phía tây Thủ đô, thuộc thôn Ngọc Thanh, khu Ngoc Hà. Nơi đó nguyên có một cái hồ hình vuông, giữa hồ có một cột đá, cao chừng hai trượng, chu vi chín thước, đầu trụ đặt một tòa chùa ngói đỏ, hình như một đóa hoa sen dưới nước mọc lên, người ta gọi là chùa Nhất Trụ hay là chùa Một Cột. Chùa xây từ năm 1049, tức là năm đầu niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo vua Thái Tôn nhà Lý.
Tục truyền khi ấy vua Thái Tôn tuổi đã cao mà chưa có con trai, thường đến cầu tự ở các chùa. Một đêm nằm chiêm bao thấy đức Phật Quan Âm hiện trên đài hoa sen trong một cái hồ vuông ở phía tây thành, tay bế một đứa con trai đưa cho nhà vua.
Sau đó nhà vua quả sinh được con trai. Nhà vua liền sai lập chùa Một Cột để thờ Phật Quan Âm. Khi chùa làm xong, nhà vua triệu tập hàng ngàn Tăng Ni đứng chầu chung quanh, tụng kinh suốt bảy ngày đêm, và lập thêm một ngôi chùa lớn ở ngay bên cạnh để thờ chư Phật, gọi là chùa Diên Hựu.
Năm 1105, vua Nhân Tôn nhà Lý cho sửa lại chùa, dựng lên một cây tháp bằng đá trắng gọi là tháp Bạch Tuynh, cao 13 trượng ở trước chùa Diên Hựu. Từ tháp Bạch Tuynh vào chùa Một Cột, đi bằng một hành lang cầu vồng. Mỗi tháng hai ngày rằm, mùng một, nhà vua cùng các hậu phi,cung tần và cận thần tới chùa lễ Phật. Đặc biệt là hằng năm cứ đến ngày tám tháng tư là ngày Phật Đản, nhà vua lại ngự ra chùa trước một đêm, giữ mình chay tịnh, ngày hôm sau làm lễ tắm Phật. Rất đông Tăng Ni và nhân dân các nơi tới dự, làm nên ngày hội lớn hàng năm ở thủ đô. Ngày ấy, trước chùa lại có một lễ lớn gọi là Lễ Phóng sinh. Lễ tắm Phật xong rồi, nhà vua đứng lên đài cao, tay cầm một con chim thả cho bay đi, rồi các tăng Ni và các nam nữ thiện tín, đua nhau mỗi người thả một con, bóng bay rợp trời.
Năm 1922, trường Viễn Đông Bác Cổ có sửa chữa lại, giữ theo đúng như quy chế cũ.
Đêm ngày 11 thánh 9 năm 1954, tay sai của thực dân Pháp, trước khi phải giao trả thủ đô cho Chính phủ và nhân dân ta, đã cố ý đặt mìn để phá hoại chùa Một Cột. Ngày sau khi tiếp quản thủ đô, chính phủ ta đã cho chiếu theo đồ dạng cũ, sửa chữa lại ngay; tháng 4 năm 1955, chùa Một Cột lại được hoàn nguyên như cũ.
Từ đầu 1958, cây bồ đề của đất Phật Ấn Độ kính tặng Hồ Chủ tịch nhân dịp Người đi thăm Ấn Độ, được đem trồng trong chùa.
Nói đến chùa Một Cột này, có một việc cần phải nói rõ là : chúng ta đọc sử về đời Lý-Trần, vẫn thấy nói đến “ An Nam tứ khí” nghĩa là bốn thứ kiến trúc lớn ở nước Nam[2], mà quả chuông ở trước Chùa Một Cột là một.
Theo sử cũ chép : Cũng về đời vua Nhân Tôn nhà Lý, vào năm Long Phù thứ tám (1108), nhà vua cho xuất kho một vạn hai ngàn cân đồng để đúc một quả chuông lớn gọi là Giác Thế Chung ( quả chuông thức tỉnh người đời) để treo ở chùa Diên Hựu, định mỗi khi đánh một tiếng chuông, tiếng sẽ vang đi mấy dặm. Xây một tòa phương đình toàn bằng đá xanh, cao 8 trượng, trên nóc đình bắc những đóng sắt to để treo chuông. Xây đình và đúc chuông, hơn một năm mới xong, hàng ngày các nơi phải thay nhau đưa dân phu đến phục dịch. Thân hình quả chuông không biết to lớn thế nào, chỉ biết khi đúc xong không thể nào treo chuông lên được, đành cứ phải để chuông đứng sát mặt đất, nên đánh chuông không kêu. Rồi bao nhiều lần dồn ép hàng ngàn người xúm vào ra sức vần xoay, kết cục chỉ vật ngã được quả chuông lăn kềnh trên mặt ruộng. Lúc đầu người ta còn làm mái che chuông, lâu ngày chẳng ai đoái hoài, mặc cho chuông nằm phơi mưa gió. Nơi chuông nằm lại vốn là một ruộng nước, lòng chuông trở thành cái tổ êm ấm cho từng đàn rùa chui ra chui vào. Vì vậy chuông lại được mang cái tên là chuông ruộng rùa.
Chuông bị dải dầu như thế đến hơn ba trăm năm. Năm 1427, bọn phong kiến nhà Minh sang xâm chiếm nước ta đã hai mươi năm, bị quân dân ta do Bình Định Vương lãnh đạo kháng chiến anh dũng, phải rút về cố thủ ở thành Đông Quan ( tức Hà Nội), rồi bị quân ta vây hãm hơn hai tháng, lương thực bị thiếu thốn, khí giới đạn dược cũng hao mòn, chúng phải vơ vét hết các đồ đồng ở dân gian, rồi đến cả phần thân trên bằng đồng của tháp Báo Thiên và quả chuông ruộng rùa này để đúc sung đạn, nhưng kết cục chúng cũng phải đầu hàng quân ta, cuốn giác về nước.
Về sự tích chùa Một Cột này lại có một truyền thuyết nói rằng: Bà Linh Nhân Thái hậu, vợ vua Thái Tôn nhà Lý, không sinh đẻ, tính lại cả ghen, bà sai Thái giám bắt giam 72 cung nữ có nhan sắc, thường được chầu hầu nhà vua, giam vào phòng tối ở cung Thượng Dương; tới khi vua Thái Tôn mất, bà lại bắt 72 người ấy phải chịu chôn sống để chết theo vua.Sau bà hối hận, dựng 72 ngôi chùa để siêu độ các oan hồn. Chùa Một Cột này là một trong 72 ngôi chùa ấy.
(Cổ tích và Thắng cảnh Hà Nội, Doãn Kế Thiện, NXB Hà Nội 1999)

2.SỰ TÍCH DƯA HẤU

Ngày xưa, có một người trẻ tuổi tên là Mai An Tiêm. Chàng là người ở một nước đâu tận vùng biển phía Nam, bị bán làm nô lệ. Một hôm, chàng bị bọn lái buôn chở đến bán cho Hùng Vương. Mai An Tiêm học nói tiếng Việt rất chóng. Chàng nhớ nhiều chuyện, biết nhiều điều thường thức, lại lắm tài nghề. Càng ngày Vua càng yêu dấu,không lúc nào rời. Năm ba mươi lăm tuổi, chàng làm quan hầu cận, có một ngôi nhà riêng ở gần cung vua. Vợ Mai là con gái nuôi của Vua năm đó đã hạ sinh được một trai lên năm tuổi. Mai có đủ mọi người hầu hạ trong nhà, của ngon vật lạ không thiếu thứ gì. Tuy oai quyền không lớn lắm, nhưng chàng được mọi người sợ phục. Nhiều kẻ vẫn thường lui tới cầu cạnh. Nhưng thấy Mai có địa vị cao cũng không hiếm gì những kẻ đâm ra ghen ghét.
Một hôm, trong một bữa tiệc đãi quan khách, giữa lúc mọi người không ngớt xưng tụng mình, Mai An Tiêm nhún nhường bảo họ:
-Có gì đâu! Tất cả mọi thứ trong nhà này đều là vật tiền thân của tôi cả.
Mai nói rất tự nhiên. Bởi vì tôn giáo ở xứ chàng bảo rằng cái sướng cái khổ hiện tại là kết quả của sự ăn tốt ở xấu của tiền kiếp. Nhưng trong số những người dự tiệc có mấy viên quan hầu gần vua, vốn ghét chàng từ lâu. Chụp lấy câu nói mà họ cho là ngạo mạn đó, bèn vội vàng về tâu cho vua biết. Vua Hùng nghe nói vô cùng giận dữ. Vua gầm lên:
-Chà! Thằng láo! Hôm nay nó nói thế, ngày mai nó còn tuôn ra những lời bất kính đến đâu. Quân nộ lệ phản trắc. Giam cổ nó lại cho ta!
Buổi chiều hôm đó, Mai bị bắt bỏ vào ngục tối, bấy giờ chàng mới hiểu mình nói lỡ lời. Mai tự bảo: “ Nếu từ nay trở đi ta bị đày đọa là vì kiếp trước[3] đã cư xử không tốt”.
Trong khi đó thì ở triều, các quan họp bàn để xử án Mai. Nhiều người đề nghị xử tử Mai. Có người đề nghị cắt gót chân, Nhưng lời tâu của một ông quan già làm cho Vua Hùng chú ý:
-Hắn bị tội chết là đúng. Nhưng trước khi hắn chết, ta nên bắt hắn phải nhận một cách thấm thía rằng những của cải của hắn đấy là do ơn trời biển của bệ hạ chứ chẳng phải là vật tiền thân nào cả. Tôi nghe ngoài cửa Nga Sơn có một hòn đảo. Cho hắn ra đấy với một hai tháng lương để hắn ngồi ngẫm nghĩ về “vật tiền thân” của hắn trước khi tắt thở.
Vua Hùng gật đầu đồng ý. Nhưng sau khi ra lệnh , Vua Hùng còn dặn:
-Cho hắn lương vừa đủ dùng trong một mùa nghe không!
Hôm đi đày, tuy ai nấy hết lời can ngăn, nhưng vợ Mai An Tiêm cương quyết theo chồng ra hải đảo. Nàng bế cả con trai đi theo. Tất cả mọi người đều cho là việc rồ dại. Nàng thì tin ở lời chồng : “ Trời sinh voi trời sinh cỏ. Lo gì!”.
Nhưng khi bước chân lên bãi cát hoang vu mịt mù thì người thiếu phụ đó cũng không ngăn nổi cảm giác tủi thân, nức nở gục vào vai chồng:
-Chúng ta đành chết mất ở đây thôi.
Mai ôm con, bảo vợ:
-Trời luôn luôn có con mắt. Cứ phấn chấn lên. Đừng lo!
Hơn một tháng đầu, đời sống của vợ chồng đã tạm ổn.Nhà ở thì chiu trong hốc đá đã được đan phên che sương gió. Nước uồng thì đã có suối. Muối không có thì đã có nước biển.Nhưng còn việc kéo dài sự sống? Hai vợ chồng nhìn vào bồ gạo đã vơi:
-“Nếu như chúng ta có một nắm hạt giống thì quyết không lo ngại gì cả”.
Tự nhiên, một hôm có một đàn chim lớn bay từ phương Tây lại, đậu đen ngòm cả một bãi cát. Rồi chúng bay đến trước hai vợ chồng kêu váng cả lên, thả xuống năm sáu hạt. Ít lâu sau từ những hạt ấy mọc ra một loại cây dây bò lan xanh um cả bãi. Dây bò đến đâu những quả xanh non mơn mởn nhú ra đến đấy. Ít lâu sau nữa, vợ chồng ra xem thì quả nào quá nấy đã lớn lên như thổi, da xanh mượt, tròn to bằng đầu người.Mai trẩy một quả, bổ ra thấy ruột đỏ hồng, hạt đen nhánh. Vợ chồng con cái cùng nếm thấy vị thanh thanh dịu ngọt. Càng ăn càng mát đến ruột gan. Mai reo lên:
-Ồ, đây là thứ dưa lạ, chưa từng thấy bao giờ. Hãy gọi nó là dưa Tây, vì thứ này được bầy chim đưa từ phương Tây lại, từ đất liền ra cho chúng ta. Trời nuôi sống chúng ta rồi!
Từ hôm đó hai vợ chồng cố trồng cho thật nhiều dưa. Họ trù tính ăn dưa thay cơm để đỡ phải dùng số gạo đã gần kiệt.
Một hôm vợ chồng Mai bắt gặp một chiếc thuyền đánh cá đi lạc ra đảo. Sau khi giúp họ sửa buồm lái để về đất liền, Mai còn đưa biếu một số dưa để họ đưa về cho mọi người nếm thử. Mai bảo họ chở gạo ra đổi lấy dưa. Chỉ cách mấy ngày, con thuyền thứ nhất đã đến cắm neo ở bến, chở ra cho hai vợ chồng khá nhiều gạo. Hai bên y ước: Một bên nhận lấy số gạo còn một bên xếp dưa xuống thuyền.
Từ đó trở đi, bữa ăn của họ đã khác trước. Ngồi bên nồi cơm trắng, hơi bay lên nghi ngút, vợ Mai ôm lấy con lẩm bẩm: “ Trời nuôi sống chúng ta thực!”. Cũng từ hôm đó, vợ chồng trồng thêm nhiều dưa nữa. Kết quả là thuyền buôn có, thuyền chài có, lũ lượt ra đỗ ở hải đảo đưa gạo, áo quần, gà lợn, dao búa,lại có cả các thứ hạt giống khác, để đổi dưa. Những người trong thuyền nói với Mai:
-Thật quả từ xưa đến giờ chưa hề có hạt dưa nào quý đến thế. Ở vùng chúng tôi ai cũng ao ước được nếm một miếng thứ “ dưa hấu” này dù phải đổi lấy bao nhiêu gạo cũng không tiếc.
Ngày ấy người ta tranh nhau mua dưa lấy giống, cho nên chỉ trong vài ba năm, giống dưa lan tràn khắp nơi.Tên tuổi vợ chồng Mai An Tiêm được truyền đi xa rộng. Dân gọi tôn là “ Bố cái dưa Tây”.
Lại nói chuyện vua Hùng, một hôm la rầy viên quan hầu vì dốt nát để thợ dựng hỏng một ngôi nhà. Vua buộc miệng than thở:
-“Phải chi có Mai An Tiêm thì đâu đến nỗi”.
Ngày hôm đó vua nhắc mãi đến chàng. Đã hai lần vua cho hỏi Lạc hầu xem hiện giờ Mai đang làm gì, ở đâu. Lạc hầu đáp liều:
-“Chắc hắn không còn nữa!”.
Nhưng vua không tin. Vua sai ngay một tên nô lệ khác cấp cho thức ăn và thuyền để hắn vào châu Ái tìm Mai An Tiêm. Một tháng sau, hắn ta mang về cho vua một thuyền đầy dưa Tây và nói:
-Đây là lễ vật của ông bà Mai dâng Bệ hạ.
Hắn kể cho Vua biết rõ những ngày tân khổ và tình trạng hiện nay của hai vợ chồng Mai. Rồi hắn tâu tiếp:
-Bây giờ ông bà Mai có nhà cửa ở ngoài ấy khá đẹp, có đến hơn mười người hầu hạ, có bãi dưa, có ruộng lúa, rất nhiều gà, lợn…
Vua Hùng càng nghe càng sửng sốt…Vua chắt lưỡi bảo mấy viên quan hầu cận ngày nọ đã tố cáo Mai:
-Hắn bảo là vật tiền thân của hắn, thật đúng chứ không sai!
Vua bèn sai một đoàn lính hầu đi đón hai vợ chồng Mai về, cho Mai trở lại chức cũ. Vua lại ban cho hai người con gái hầu để an ủi chàng.
Bấy giờ chỗ hải đảo, người ta còn gọi là bãi An Tiêm.Những người kế tiếp công việc của hai vợ chồng Mai trên đảo vẫn còn dòng dõi đông đúc. Họ lập thành làng gọi là làng Mai An. Ở ngôi nhà cũ của Mai thì họ lập đền thờ hai vợ chồng chàng. Nhân dân gọi là “Ông bà Tổ dưa Tây (hay dưa hấu)”.[4]

3.SỰ TÍCH TRÁI SẦU RIÊNG

Ngày ấy, vào thời Tây Sơn, có một chàng trẻ tuổi người vùng Đồng Nai. Chàng là người tài kiêm văn võ, vừa vung gươm hưởng ứng cái bất bình của mọi người. Chàng từng cầm quân mấy lần làm cho tớ thầy chúa Nguyễn chạy dài.
Nhà Tây Sơn mất, chàng lui về quê nhà mượn nghề gõ đầu trẻ để náu hình ẩn tích. Đột nhiên có tin dữ truyền đến làm cho mọi người xao xuyến. Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt Nam thì cũng bắt đầu giết hại những người từng làm quan cho nhà Tây Sơn, Nhà vua cứ dựa vào chức tước lớn hay nhỏ của họ mà gia hình: Tư mã, Quận công thì lăng trì, tùng xẻo; Vệ úy, Phân suốt thì đánh gậy, phạt roi…
Dân trong xóm sẵn lòng quí mến, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ mui lồng để tiện đi lại.
Vì không muốn để rơi vào tay quân địch, chàng ra đi.Ngược dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào nước Chân Lạp.
Một hôm chàng cắm sào lên bộ mua sắm thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường.Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi Tà Lơn, về đến đây thì con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng hết sức chạy chữa, cuối cùng cũng giúp cô gái lấy lại sức khỏe. Và sẵn có thuyền riêng, chàng chở họ về tận nhà.
Nàng là con gái chưa chồng, đã đến chỗ quay xa đạp cửi. Nàng có vẻ đẹp thùy mị.Tự nhiên anh chàng trai người Việt ở tận đâu xa xôi đến trú ngụ tại nhà làm cho nàng quyến luyến.
Sau một tuần chay tạ ơn Trời Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lấy cuộc sống mới cho qua ngày. Từ đây, chàng có chỗ ở nhất định. Nhà nàng là nhà làm ruộng, nuôi tằm. Những việc đó chàng đều làm được cả.
Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quit với nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây “tu rên” mà ở xứ sở chồng không có. Lần ấy gặp kỳ quả chín đầu mùa, vợ trèo lên cây trẩy xuống một quả, xẻ đưa cho chồng ăn. Quả “tu rên” vốn có mùi hôi đặc biệt. Thấy chồng nhăn mặt, vợ bảo:
-Anh cứ ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.
Không ngờ một năm kia, vợ chàng đi dâng hương Đế Thiên Đế Thích về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp.Cái chết chia rẽ vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa trọn đời sẽ không nào xa rời chồng.
Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con ở quê chàng nhắn tin lên bảo về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng tạm đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết là sẽ theo cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy cây “tu rên” tự nhiên chỉ hiện ra có mỗi một quả. Và quả “tu rên” đó tự nhiên rơi ngày vào vạt áo giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó cùng mình về xứ sở.
Chàng trai trở về nghề cũ. Nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt “tu rên” thành cây đem trồng trong vườn ngoài ngõ. Từ đây, ngoài công việc dạy học còn có công việc chăm nom cây quý.
Những cây “tu rên” của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã đốm bạc. Nhưng ông già ấy lòng bỗng trẻ lại khi thấy những hàng cây mà mình bấy lâu chăm sóc đã bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hành làng xóm tới dự đám giỗ của vợ và nhân thể thưởng thức một thứ quả lạ đầu tiên có ở trong vùng.
Khi những quả “tu rên” bưng ra đặt trên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Nhưng chủ nhân biết ý đã nói đón:
-…Nó xấu xí, nó hôi, nhưng chính những múi của nó ở trong lòng lại đẹp dẽ thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ…
Ông ta vừa nói vừa xẻ những quả “tu rên” chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Múi “ tu rên” muốt vào đến cổ quả có một vị ngon ngọt lạ thường. Đoạn, ông kể hết đoạn tình duyên xưa mà từ lúc về đến nay ông đã cố ý dấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Và khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy long lanh hai giọt lệ nhỏ đúng vào múi “tu rên” đang cầm ở tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên múi “tu rên” như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch.
Sau đó đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà tự nhiên chết. Từ đấy, mỗi lần dân làng ăn thứ quả đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi “tu rên” bằng hai tiếng “ sầu riêng” để nhớ đến mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta lại còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng dõi loại hạt có hai giọt nước mắt của anh chàng nhỏ vào thì mới là thứ sầu riêng có quả ngon hơn các thứ khác.[5]

4.SỰ TÍCH CÂY HUYẾT DỤ

Ngày xưa, có một bác đồ tể chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường thức dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, sư cụ thúc chú tiểu dậy, gõ một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta quen lấy tiếng chuông chùa làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc.
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: “ Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!” rối rít. Sư cụ hỏi người đàn bà:
-A Di Đà Phật! cứu mạng là cứu thế nào? Bần Tăng phải làm gì đây?
Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời:
-Ngày mai xin Hòa thượng hãy cho đánh chuông chậm lại, như vậy mẹ con chúng tôi rất đội ơn.
Nhà sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm râm đọc kinh cầu nguyện mà không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông.
Lại nói chuyện hôm ấy, bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thi khi đưa ra đến chợ, chợ đã vắng người rồi. Tức mình vì lỡ mất buổi chợ, bác ta lật đật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ cho biết câu chuyện nằm mộng đêm qua để phân trần với ông hàng xóm, không phải lỗi tại mình.
Nhưng lúc bước chân về chuồng lợn của nhà mình thì bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn cái trong chuồng mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự việc lạ lùng:
-Đúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn cái đã tìm cách cứu bầy con của mình khỏi chết.
Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đến cực điểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sanh chùa bộc bạch nỗi lòng với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ.
Không rõ bác đồ tể rồi sau đó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ.[6]
Khảo dị
Truyện trên chắc chịu ảnh hưởng của Phật thoại, nó được nhân dân lưu truyền khá rộng. Có thể so sánh với truyện “ Rắn báo oán” ( số 157, tập 4).
Trong Bản quốc dị văn lục có kể truyện trên và cho rằng sư cụ chính là bố của Nguyễn Xí, người làng Lê Xá, huyện Chân Phúc ( tức Nghi Lộc), Nghệ An, tên là Trị. Cuối đời Trần thi không đỗ, ông bỏ đi tu, tu trì ở chùa làng, lấy tên là Hòa Nam thiền sư. Sau khi nghỉ đánh chuông để cứu người đàn bà trong mộng ( tức mẹ con con lợn), sư bèn bỏ tiền mua lấy đàn lợn ấy của bác đồ tể rồi đem thả chúng vào rừng. Về sau sư bị hổ giết, mối đùn thành mộ, nhưng con cháu nhà sư thì từ đó trở đi điạ vị rất cao ở triều đình nhà Lê. Người chép truyện có ý nói đó là nhờ mẹ con con lợn báo ơn một cách huyền bí mới được như thế.
Một truyền thuyết về Nguyễn Nghiễm cũng có một nội dung tương tự:
Nguyễn Nghiễm-là cha của thi hào Nguyễn Du-một lần về chơi quê nhà, một đêm mộng thấy một người đàn bà đến cầu cứu mình:
-Xin cụ làm ơn cứu mạng, Con đang có thai được mẹ tròn con vuông là nhờ ơn cụ.
Tỉnh dậy, ông không hiểu thế nào cả. Nhưng sau đó bỗng thấy có người đến biếu một con cá chép rất to vừa đánh lưới được. Trông thấy con cá có chửa, ông nhớ đến giấc mộng hôm qua, liền sai người nhà đem thả xuống sông. Đêm hôm ấy, lại mộng thất người đàn bà nọ đến cảm ơn mình[7]. Từ đấy họ Tiên Điền có tục kiêng ăn cá chép.[8]

5.SỰ TÍCH KHUÔNG VIỆT ĐẠI SƯ

Thiền Uyển Tập Anh kể rằng: Sư ở chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc[9]. Người Cát Lợi, họ Ngô, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế. Sư tướng mạo khôi ngô, tính phóng khoáng , nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật. Sư cùng bạn học Trụ Trì đến Thiền sư Vân Phong chùa Khai Quốc, thọ giới Cụ Túc. Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền. Năm bốn mươi tuổi, danh sư vang tới triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng mời đến, Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong làm Tăng Thống. Năm Thái Bình thứ hai (971), vua ban hiệu Khuông Việt Đại sư.
Hoàng đế Lê Đại Hành càng kính trọng Sư hơn, phàm việc quân, việc nước ở triều đình, Sư đều dự vào.
Một lần Sư đi chơi núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm tới nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: “ Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, những người theo ta là Dạ Xoa. Thiên Đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết”. Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu là ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt, đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng để thờ.
Năm Thiên Phúc thứ I (981), binh Tống đến quấy nước ta.Vua biết rõ việc đó, liền sai Sư đến bàn thờ cầu đảo. Quân giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu Ninh, lại thấy sóng gió nổi lên, giao long nhảy nhót, giặc bèn tan vỡ.
Năm Thiên Phúc thứ 7 (986), người Tống là Nguyễn Giác sang sứ nước ta.Bấy giờ Pháp sư Đỗ Thuận cũng có tiếng tăm lừng lẫy. Vua sai Pháp sư cải trang làm người lái đò để nghinh đón Giác ở Giang Khúc. Giác thấy Pháp sư giỏi bàn văn chương, bèn đem thơ tặng, có câu: “ Ngoài trời lại có trời soi rạng”. Vua đưa hỏi Sư, Sư thưa rằng: “Đây nó muốn tôn kính Bệ hạ cùng với Chúa nó không khác”. Khi Giác trở về, Sư làm một bài từ nhan đề Vương Lang qui để tiễn đưa. Bài từ như sau:
Trời lành gió thuận, gấm buồm giương
Thần tiên về đế hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang
Trời xanh xa dặm trường
Tình ray rứt chén lên đường
Bịn rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Phân minh tâu Thượng hoàng.
Sau, Sư lấy cớ già yếu, xin từ quan về núi Du Hí ở quận mình, lập chùa Trụ trì; người học tìm tới đông đảo. Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: “Thế nào là chung thủy của sự học đạo?”
Sư đáp:
“Thủy chung không vật, diệu hư không
Hiểu được chân như, thể tự đồng”.
Bảo tiếp: “ Làm sao đảm bảo được?”
Sư đáp: “ Không có chỗ cho người xuống tay”.
Bảo nói: “ Hòa thượng nói xong rồi”.
Sư lại hỏi: “ Ngươi hiểu gì?”
Bảo bèn hét lên.
Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) triều Lý, khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ rằng:
Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lửa mới bừng
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát do đâu bùng.”
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi[10](933-1011).
( Thiền Uyển Tập Anh, Lê Mạnh Thát dịch,NXB.TPHCM-1999).

6.HUYỀN THOẠI THIÊN MỤ

Theo “ Nam Triều Công nghiệp diễn chí” của Nguyễn Khoa Chiêm kể thì:
“Một hôm chúa Nam nhân nhàn hạ đi du ngoạn các nơi núi non sông biển, chẳng đâu không khắp. Khi đến xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa chốn đồng bằng động khởi một gò đồi cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ. Đoan Vương Nguyễn Hoàng trong bụng lấy làm ưa thích, bèn trèo lên đồi cao nhắm nhìn xung quanh, chợt thấy một đoạn hào đào cắt ngang dưới chân núi. Nguyễn Hoàng thầm nghĩ lấy làm đáng tiếc, chưa biết nguyên do ra sao. Sau đó Đoan Vương tìm người địa phương hỏi thăm ngọn đồi kia tên gọi là gì. Người địa phương thưa rằng:
-Chúng tôi là dân mọn, chỉ nghe lời truyền của các cụ ngày xưa rằng: Núi này rất linh thiêng, khoảng đời nhà Đường có viên Đại tướng tên là Cao Biền từng đi khắp các nơi núi non sông biển nước ta xem những nơi nào có vượng khí linh thiêng thì tìm cách cắt yểm đi, ý là muốn cướp đoạt nước Nam ta. Cao Biền thấy trên núi này có khí thiêng bàn đào phía sau chân núi để cắt mạch đi khiến cho linh thiêng về sau không cư tụ được. Đêm hôm ấy bỗng có một người đàn bà thể sắc trông thì còn trẻ, nhưng mày tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ quần xanh ngồi dưới chân núi kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc Quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều, thì nên lập chùa thờ Phật, cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi này để phúc dân giúp nước, tất không thì phải lo”. Người đàn bà ấy nói xong liền biến mất. Dân trong vùng ghi nhớ lấy hình dáng bà ấy đặt tên là núi Thiên Mụ. Ấy là sự tích người xưa truyền lại như thế, đúng sai ra sao, bọn dân chúng tôi không biết rõ, mong tôn ông minh xét.
Nguyền Hoàng nghe nói cả mừng bảo rằng:
-Ấy là bà lão bảo ta mở nền định đất, biến nhà thành nước để nên nghiệp lớn.
Nói đoạn, sai người cất dựng chùa Phật, viết biển đề chữ “ Thiên Mụ Tự”. Từ đó dân chúng tới cầu khẩn đều thấy linh thiêng ứng nghiệm”.
(Chùa Thiên Mụ của Hà Xuân Liên, NXB.TH,2000)

7.SỰ TÍCH CHIM TU HÚ

Ngày xưa có hai nhà sư, Năng Nhẫn và Bất Nhẫn. Hai người cùng cạo đầu xuất gia từ khi còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo lánh. Sau một thời gian dài tu luyện thì bỗng một hôm Năng Nhẫn được đức Phật độ cho thành chính quả.
Bất Nhẫn thấy mình không kém gì bạn mà không được hưởng cái may mắn sớm như bạn thì rất buồn bực. Chàng đến trước tòa sen hết sức kêu nài với đức Phật, bày tỏ lòng chân thành tu đạo cùng mọi sự khổ hạnh đã trải qua của mình. Đức Phật bảo chàng:
-Nhà ngươi chuyên tâm cầu đạo, lại là người trong sạch, thật đáng khen ngợi. Nhưng tính tình nhà người vẫn như con trâu chưa thuần, chưa thể đắc đạo được. Vậy hãy cố gắng tỏ rõ tấm lòng nhẫn nhục trong một cuộc khổ hạnh trường kỳ rồi sẽ theo bạn cũng chưa muộn.
Bất Nhẫn nghe lời, bèn lên núi chọn một gốc cây, bắt chước người xưa, ngồi xếp bằng tu theo lối trường định. Chàng cương quyết ngồi im lặng như thế mãi trong ba năm dù có phải thế nào cũng không chịu dậy.
Và từ hôm đó, Bất Nhẫn như một vật vô tri vô giác. Những con sâu, con kiến bò khắp mình chàng. Những con thú cà vào thân chàng. Những con chim ỉa phẹt lên đầu chàng. Chàng đều không hề bận tâm. Chàng chỉ một mực tâm tâm niệm niệm những nghĩa lý cao thâm của đạo Phật.
Cứ như thế, trải qua hai mùa hè và sắp sửa qua một mùa hè thứ ba là kết liễu cuộc tu luyện. Tự dưng một hôm, có hai vợ chồng con chim chích ở đâu đến làm tổ ngay trong vành tai của Bất Nhẫn. Chàng cứ để yên, mặc chúng muốn làm gì thì làm, Chúng đi về tha rác lên đầu, lên mặt.Rồi chim mái đẻ trứng.Rồi cả một thời kỳ hai vợ chồng thay phiên nhau ấp. Cho đến lúc trứng nở, những con chim non kêu léo nhéo suốt ngày. Nhưng Bất Nhẫn không lấy thế làm khó chịu.
Một hôm, lúc ấy chỉ còn mười ngày nữa thì Bất Nhẫn hết hạn ngồi dưới gốc cây. Hôm đó, đến lượt con chim vợ đi tìm thức ăn cho con. Suốt cả một buổi chiều nó vẫn không kiếm được chút gì. Mãi đến gần tối, lúc lượn qua một cái hồ, chim vợ mối thấy một con nhện đang giăng tơ trong một đóa sen. Nhện nhác thấy chim liền ẩn mình vào giữa những cánh hoa làm cho chim mất công tìm mãi. Không ngờ hoa sen vừa tắt ánh mặt trời đã cụp ngay những cánh lại, nhốt chim vào trong. Chim cố công tìm lối chui ra nhưng những cánh hoa vây bọc dày quá đành chịu nằm lại đó.
Ở nhà, chim chồng hết bay đi kiếm vợ lại trở về. Đàn con đói mồi nháo nhác suốt đêm. Mãi đến sáng mai, chờ lúc hoa sen nở, chim vợ mới thoát được bay về tổ. Một cuộc cải lộn nổ ra bên tai Bất Nhẫn. Ghen vợ, chim chồng mắc nhiếc vợ hết lời. Nhưng chim vợ vẫn hết sức bày tỏ nỗi lòng trinh bạch của mình. Cuộc đấu khẩu kéo dài hết cả một buổi sáng và có cơ chưa chấm dứt. Bất Nhẫn rất khó chịu. Thêm vào đó, đàn con khóc đói chíu chít điếc cả tai. Nhè lúc vợ chồng chim cãi vả đến chỗ găng nhất, Bất Nhẫn bỏ tay lên tai giật cái tổ chim vứt mạnh xuống đất và nói:
-Đồ khốn! Chỉ có mỗi một chuyện đó mà chúng mày làm điếc cả tai ông từ sáng đến giờ.
Thế là công sức tu luyện của Bất Nhẫn sắp hoàn thành thốt nhiên vứt bỏ trong chốc lát.
Nhưng Bất Nhẫn vẫn không nản chí. Trước tòa sen, chàng hứa sẽ kiếm cách tỏ rõ sự hối lỗi của mình. Chàng tìm đến một khúc sông nước chảy xiết, tình nguyện làm người chèo đò đưa khách bộ hành quá giang mà không lấy tiền. Chàng quyết chở cho đến người thứ một trăm mới chịu nghỉ tay.
Lần này Bất Nhẫn tỏ ra là người rất nhẫn nại. Tuy bến sông thường vắng khách, chàng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Luôn trong hai năm chàng chở được chín mươi tám người mà không xảy ra việc gì.
Một hôm vào khoảng giữa thu, nước sống tự nhiên tràn về chảy xiết hơn mọi ngày. Trời bỗng đổ một trận mưa lớn. Giữa lúc đó có một người đàn bà dắt một em bé đòi qua sông. Hắn có vẻ là vợ một viên quan sở tại, chưa bước xuống thuyền đã dọa Bất Nhẫn:
-Chú nhớ chèo cho vững nghe không. Che mui cho kín.Nếu để chúng ta mà ướt thì liệu chừng kẻo roi quắn đít đó.
Nghe nói thế Bất Nhẫn đã hơi bực, nhưng chàng nín được và vẫn giữ vẻ mặt tươi cười đáp:
-Bà và cậu đừng sợ gì cả.Tôi xin cố sức.
Rồi chàng vận dụng hết tay nghề để đưa hai mẹ con nhà nọ qua bên kia sông được vô sự. Lúc sắp lên bờ, người đàn bà bỗng kêu lên:
-Ta quên khuấy đi mất. Có một gói hành lý bỏ quên ở cái quán bên kia. Vậy nhà ngươi chịu khó chèo sang lấy hộ.
Bất Nhẫn nín lặng cắm cổ chèo qua sông giữa sóng gió. Mãi đến gần tối, chật vật lắm chàng mới đưa được gói hành lý sang cho người đàn bà. Nhưng khi soát lại gói, người đàn bà nọ kêu lên:
-Thôi rồi! Còn một đôi giày của thằng bé bỏ ở gầm giường. Thế nào nhà ngươi cũng phải gắng sang lấy cho ta một lần nữa.
Người đàn bà nói chưa dứt lời thì Bất Nhẫn đã giơ tay chỉ vào mặt:
-Cút đi đồ chó ghẻ! Tao có phải sinh ra để hầu hạ mẹ con nhà mày mãi đâu.
Nhưng người đàn bà ấy vốn là đức Phật Quan Âm hiện hình xuống thử lòng người đệ tử khổ tu đó, bây giờ lại hiện nguyên hình và cất tiếng bảo chàng:
-Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, như thế thì tu gì mà tu, có mà tu hú!
Bất Nhẫn thẹn quá đành cúi đầu nhận lỗi.
Phật Quan Âm sau đó bắt Bất Nhẫn hóa thành một giống chim mà người đời sau quen gọi là chim tu hú. Họ bảo thứ chim đó vào khoảng cuối hè sang thu hay xuất hiện, đúng vào lúc xảy ra câu chuyện giữa Bất Nhẫn với Phật bà Quan Âm.[11]
Khảo dị
Truyện này có thể bắt nguồn từ một Phật thoại hay một ngụ ngôn nhà chùa.Nhưng nó đã được nhân dân thêm thắt và truyền tụng khá phổ biến. thi sĩ Trần Kế Xương đã diễn tả đoạn đầu theo điệu lục bát thành truyện thơ nhan đề là “ Năng Nhẫn Bất Năng Nhẫn hành”.[12] Trong ca dao Việt Nam có một bài kể nỗi oan của con chim chích mái, cũng rút từ truyện cổ tích trên.
Ông Tô Tử lên chơi trên đỉnh núi,
Thấy hai vợ chồng con chim chích,
Chín tháng mười ngày đủ cánh mọc lông,
Vợ để con cho chồng, bay đi kiếm chác;
Lạ thung thổ, mồi thời không được,
Bước chân ra về thấy nhện chăng tơ.
Mãi vui chơi bắt nhện nào ngờ,
Khi âm tối, hoa sen cụp lại.
Chồng thì mong, con thì bỏ đói,
Hết dỗ đứng dỗ ngồi, ra ngõ liền trông.
-Kìa kìa gái năm con chửa hết lòng chồng,
Còn say đắm về bên hoa nguyệt.
-Tôi thề có trời xanh nước biết,
Núi non thề với nước non,
Nào ai phụ rẫy chồng con, đã trời?[13]
Xem thêm các truyện “ Sự tích con nhái” số 10, “ Sự tích Cá he” số 13 và “ Sự tích ông Bình vôi” số 22, đều ít nhiều có tính chất Phật thoại và tương tự phần nào với truyện này về mặt chủ đề.

8.SỰ TÍCH CON NHÁI

Ngày xưa có một vị Hòa thượng trẻ tuổi nội tiếng chân tu. Mọi “thị dục” của bản thân, Hòa thượng đều cương quyết cắt đứt, chỉ một lòng chuyên chú vào lẽ hư vô của đạo Thiền. Nhà vua nghe tiếng, vô cùng kính trọng, mời về kinh đô, ban chức Quốc sư và sai tu bổ một ngôi chùa ở phía Nam kinh thành để sư tu trì. Nhưng hòa thượng từ tạ vua, chỉ xin phép đi xem chùa chiền, cảnh đẹp trong thiên hạ.
Một hôm, Hòa thượng một mình tìm đến một ngôi chùa xa ở vùng Bắc. Ở đó có một vị sư bạn trụ trì mà Hòa thượng lâu ngày chưa gặp.
Từ lâu Phật Bà Quan Âm đã nghe tiếng đồn về Hòa thượng này. Lần này nhân cuộc đi chơi của Hòa thượng, Phật bà định bụng thử xem con người đó như thế nào. Nếu quả đúng là chân tu thì Phật Bà sẽ đưa về Tây Trúc độ cho thành Phật.
Lúc Hòa thượng sắp qua một con sông rộng, Phật Bà hóa thành một cô gái rất trẻ đẹp chống đò cập bến chờ khách quá giang. Hôm ấy cũng theo phép mầu nhiệm của Phật Bà, khúc sông đó trở nên vắng vẻ, người và thuyền bè qua lại rất ít. Khi Hòa thượng chui vào trong khoang đò thì cô gái nhổ sào chèo ra giữa sông. Đoạn nàng bẻ lái cho thuyền tiến đến một bãi cát vắng đậu lại. Hòa thượng lấy làm lạ, hỏi cô gái vì sao không đi thẳng qua bờ bến kia? Cô gái chỉ đợi có câu hỏi ấy là buông chèo, cười một nụ cười rất tình tứ rồi cũng chui vào khoang trả lời một cách cợt nhã là thấy sư quá đẹp trai nên cắm sào lại đây cầu xin được ân ái. Hòa thượng vốn nghe nói con gái ở vùng này có nhiều người đáo để nên nghiêm nét mặt lại:
-A Di Đà Phật! Mong người trần giới buông tha cho kẻ tu hành này.
Nhưng cô lái đò đâu có buông tha, cô sán lại gần gợi tình. Hòa thượng không nói gì, lẳng lặng mở gói lấy cuốn kinh Kim Cương tam muội ra tụng. Tiếng đọc của Sư mỗi lúc một lớn, át cả tiếng nói của cô lái đò. Nhưng cô lái đò vẫn cười nói không thôi. Rồi cô che tay lên quyển kinh. Hòa thượng ngoái cổ nhìn ra ngoài đò rồi nghiêm khắc cảnh cáo:
-A Di Đà Phật! Trong người bần Tăng hiện có một tờ lệnh chỉ của Hoàng đế. Trong đó Hoàng đế đã ra lệnh là hễ người nào phạm vào người bần Tăng sẽ bị án trảm quyết. Vậy bần tăng mong người đứng phạm vào phép của thiên tử.
Lời dọa của nhà sư không làm cho cô gái nhụt một chút nào. Cô nói:
-Em đang muốn chết đây! Em chỉ mong chàng đoái thương một tí rồi chết cũng thỏa.
Nhưng hồi lâu, thấy lòng nhà sư không chuyển, cô lái đò lại thi hành một mưu khác, cố quyến rũ cho bằng được. Cô bắt đầu cởi áo ra. Khi chiếc yếm cổ đuôi nhạn bỏ xuống thì Hòa thượng nhắm mắt lại. Hòa thượng quay về phía cái gói lấy chiếc áo của mình khoác vào người nàng. Trong khoang đò chật chội, tay Hòa thượng vẫn lần tràng hạt, miệng vẫn lẩm nhẩm đọc kinh. Trong khi đó những tiếng của cô gái như mật rót vào tai:
-Chàng thương em một tý….Chàng nhìn ra ngoài xem, không có một ai cả…
Nhưng vô hiệu.
Phật Bà Quan Âm rất cảm động. Những người con Phật như thế này rất xứng đáng chiếm một chỗ ngồi trên Nát-bàn. Nhưng đã thử thì phải thử cho trót. Lần tấn công thứ chín, cô lái vẫn bị cự tuyệt. Hơi thở của cô con gái trẻ và đẹp phảng phất ở trên má, nhưng nét mặt của Hòa thượng vẫn không thay đổi.
Nhưng đến lần thứ mười, cô gái không ngờ thành lũy tưởng kiến cố lại bị hạ một cách quá bất ngờ. Bàn tay Hòa thượng tự nhiên run rẩy bỏ lên mình nàng. Thôi thế là chỉ trong một phút, vứt hết hơn hai mười năm tu luyện.
Thế là chuyến đó Phật Bà Quan Âm không được hài lòng. Giận vì Hòa thượng đã thiếu kiên trì trước sự cám dỗ của “thị dục”, mà đã như thế thì thanh danh cũ không còn đáng đếm xỉa nữa, nên Phật bà đã nắm lấy cổ Hòa thượng vứt ngay xuống sông như người ta vứt một cái rác. Như thế mà Phật bà vẫn chưa cho là đáng tội, nên còn bắt hóa thành loài nhái, là một loài động vật hạ đẳng. Cũng vì thế mà người ta nói rằng ngày nay dòng dõi loài nhái cũng còn giữ cái thói quen của tổ tiên, ví dụ khi chúng bị chặt đầu, chúng vẫn chắp hai chân trước lại với nhau như người đang vái[14]
Khảo dị
Người miền Bắc có truyện “Sự tích con ếch” có tính chất tiếu lâm:
Xưa có nhà sư xuất gia từ khi còn tấm bé. Sư nổi tiếng chân tu lại học rộng, mọi phép sát quỷ trừ tà đều thông cả. Một hôm Phật báo mộng cho sư biết rằng sư sẽ đắc đạo sau khi dự một cuộc thi ở Thiên đình.
Tỉnh dậy sư rất mừng, từ đó ngày đêm quyết ôn luyện kinh kệ và ấn quyết cho được tinh thục. Một hôm, sư chợt nghĩ: “ Mình lục trí thần thông đều đủ cả, duy chỉ có một việc chưa từng biết là cơ thể đàn bà. Nếu lúc lên trên kia, người ta hỏi đến thì không biết đường nào mà trả lời”.
Nhưng muốn biết việc đó không phải dễ. Sau cùng sư đánh liều nhờ thủ tự bí mật giúp cho. Thủ tự đi tìm từ đầu làng đến cuối chợ chả được ai cả, đành về dỗ vợ, ngọt nhạt mãi vợ mới chịu.
Tìm hiểu được cơ thể đàn bà rồi, nhà sư rất thỏa mãn.
Nhưng từ đó sư đâm ra ngớ ngẩn, kinh kệ và cúng đàng chả thiết chi cả. Việc phù phép cũng mất linh nghiệm. Phật biết chuyện đó, nổi giận bèn cho sét đánh chết. Như thế mà Phật vẫn không hết giận, còn bắt sư hóa làm ếch. Khi thủ tự mở áo quan để nhặt hài cốt thì chỉ thấy có một con ếch nhảy ra. Vì thế mà có câu tục ngữ:
Đi tu mà chẳng trọn đời,
Sinh ra con ếch cho người lột da.[15]

9.SỰ TÍCH CON MUỖI

Có hai vợ chồng nhà nọ yêu nhau rất mực. Ngày mới lấy nhau, họ đã từng ăn thề hẹn không bỏ nhau. Nếu không may một trong hai người chết đi thì người kia sẽ chết theo để xuống âm ty cho có bạn.
Sau đó không bao lâu, người vợ trẻ tự nhiên bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Người ta không thể tả cái cảnh đau thương của người chống. Anh chàng đã mấy lần toan tự tử, nhưng bị người nhà ngăn trở và canh phòng ráo riết. Hôm sắp sửa cất đám, bỗng có một đạo sĩ đến bày cho chàng phép cải tử hoàn sinh mà theo lời ông ta đã từng có nhiều người dùng rất ứng nghiệm.Phép của ông ta rất giản dị, chỉ cần người sống gan dạ và kiên trì một chút là được. Nghĩa là người sống một ngày ba lần ôm ấp và truyền hơi ấm của mình vào cho tử thi. Làm luôn như thế không nghỉ ngày nào thì chỉ trong khoảng ba tháng mười ngày là người chết sống lại.
Người chống cám ơn đạo sĩ và làm đúng như lời dặn, hy vọng đưa người yêu trở lại cõi thế. Hắn ngày ngày ôm ấp vợ, truyền sức nóng, hơi thở của mình vào cái xác đã lạnh toát.
Nhưng sau đó ba ngày, mùi hôi của tử thi bay ra khắp xóm làm cho mọi người không chịu được. Họ kéo nhau đến nhà bắt hắn phải chôn lập tức.
Bất đắc dĩ người chống phải nhờ xóm giềng chặt nứa làm giúp một cái bè để mình đưa xác vợ đi một nơi khác. Nhiều người vui lòng giúp anh chàng trong việc này. Chỉ trong nửa ngày, hắn đã chở xác người yêu đi biệt.
Chiếc bè theo dòng nước trôi mãi. Người chồng vẫn ngày ngày ấp ủ vợ không thôi.Cái tử thi đó trông vẫn như người nằm ngủ. Lòng anh chàng tràn trề hy vọng. Đến một nơi kia, hắn cắm bè lại kề một bãi cỏ rộng, lên bộ nấu ăn.
Tình cờ trong khi đi nhặt củi anh ta gặp một ông cũ già. Nhìn thấy ông cụ chống gậy đi một mình giữa cảnh trời nước hoang vu, lại râu tóc trắng xóa, hình dung không có gì là lam lũ, chàng trẻ tuổi lấy làm ngạc nhiên. Hắn đang suy nghĩ thì thoáng một cái ông cụ đã đứng trước mặt. Hiểu ngay đó là bậc Tiên Phật, hắn vội phục xuống chân cụ già rồi kể lể sự tình, cuối cùng không quên cầu khẩn ông cụ sinh phúc giúp cho vợ mình sống lại. Thấy hắn nài nỉ hết sức, đức Phật-vì chính ông cụ đó là đức Phật-bèn thương tình theo xuống bè, bảo hắn chích máu ngón tay lấy ba giọt giọt vào miệng vợ. Tự nhiên người đàn bà mấp máy môi rồi từ từ ngồi dậy như vừa tình một giấc mơ. Đức Phật, trước khi ra về có hỏi người vợ:
-Anh chàng này cho vay ba giọt máu để ngươi được hồi sinh. Vậy nhà ngươi có yêu anh ta chăng?
-Con rất yêu chồng con, thề trọn đời trọn kiếp không thay lòng đổi dạ.
Trước câu thề bồi chắc nịch của người đàn bà, đức Phật bảo:
-Không can gì. Nếu không yêu nữa thì chỉ có việc trả lại ba giọt máu cho anh ta là đủ.
Thấy bọn họ nóng lòng muốn trở về quê hương, đức Phật gọi một con cá sấu khổng lồ từ dưới vực sâu lên bảo chở họ đi.
Cá sấu vượt sông được nửa ngày đường thì bụng đã đói. Nó bảo hai vợ chồng lên bộ nghỉ ngơi để cho nó đi tìm cái gì ăn. Hai vợ chồng dắt nhau vào quán cơm. Trong quán hôm đó có người khách thương sang trọng. Hắn ta thấy nhan sắc người vợ diễm lệ ít có ai sánh tày thì bỗng nảy tà dâm, mưu toan chiếm đoạt. Hắn lân la lại gần, đưa các mẫu hàng tơ lụa và đồ trang sức ra vờ chào khách nhưng kỳ thực là để tán tỉnh người đàn bà đẹp. Hắn nói trong thuyền hắn đậu gần đấy còn có nhiều món hàng nữa rất quý và rất rẻ, muốn mời họ xuống xem.
Nhưng người chồng thì chẳng thiết một tí nào. Cơm nước xong, chồng bỏ mặc người khách thương, dắt vợ ra bến vắng, ở chổ hẹn với cá sấu, ngồi đợi. Họ ngồi dưới bóng cây trò chuyện một lúc rồi vì mệt quá, ngủ quên lúc nào không biết. Họ cũng chẳng ngờ rằng, sau lưng họ người khách thương kia vẫn theo sát không rời. Khi thấy hai người nằm ngủ, hắn đi nhẹ đến thức riêng người vợ dậy, mời nàng xuống thuyền đậu kế đó để hắn biếu một món trang sức rất đẹp:
-Thuyền của tôi chỉ cách đây mười bước. Bà không phải đợi lâu đâu!
Nghe nói thế, lòng người đàn bà bỗng lay chuyển. Nàng đứng lân, đi theo người khách thương xuống thuyền. Chỉ trong nháy mắt, theo ám hiệu của chủ, bọn thủy thủ nhổ neo và dong buồm cho thuyền chạy mất.
Lại nói chuyện cá sấu, lúc ngoi lên chỗ hẹn thì thấy chỉ có một mình người chồng,bấy giờ vẫn đang ngủ say. Cá sấu thức hắn dậy hỏi chuyện. Anh ta ngơ ngác không hiểu thế nào. Một mất mười ngờ, hắn đổ tội cho cá sấu đã ăn mất vợ. Để giải mối ngờ, cá sấu mới bảo hắn kiếm cây luồn qua miệng mình, khua trong dạ dày xem thử cho biết. Anh chàng làm theo, chỉ thấy trong bụng cá sấu toàn xương cá và đá cuội, mới biết mình ngờ sai. Tìm khắp mọi nơi chẳng thấy vợ,hắn trở về bến, ôm đầu kêu khóc thảm thiết. Cá sấu thương tình bèn bảo hắn cởi lên lưng để nó chở đi đuổi theo những chiếc thuyền vừa qua lại ngang đây dò tìm tung tích vợ. Sau mấy lần dò hỏi, người ta cho biết một chiếc thuyền buôn vừa đi qua, trong đó có một người đàn bà trẻ đẹp. Họ tả nét mặt và hình dạng thì đúng là vợ chàng. Cá sấu bèn cố công đuổi riết.
Khi nhìn thấy vợ ngồi trong thuyền khách thương, người chồng nói với vào:
-Nàng cứ nhảy ra đây…Tôi không thể sống xa nàng được…Tôi sẽ làm cho nàng sung sướng…
Nhưng người vợ bảo chồng:
-Chàng về đi! Em đành phụ chàng. Chàng tha thứ cho em vậy.
Rồi đưa ra cho chồng một gói vàng:
-Chàng hãy nhận lấy vật này và coi như em đã chết từ hôm nào rồi.
Vừa bực tức vừa thất vọng, chồng ném gói vàng xuống nước rồi nhờ cá sấu đưa về tìm đức Phật. Khi đức Phật gặp bọn họ, liền giục cá sấu hối hả rượt theo chiếc thuyền của khách thương để cho anh chàng thất tình đòi lại ba giọt máu của mình.
Lại nói chuyện người đàn bà, sau khi chích máu ở tay để lấy ra ba giọt trả nợ cho chồng thì ngã vật xuống chết ngay. Người khách thương hết sức cứu chữa nhưng vô hiệu. Rồi sau đó hắn ném xác nàng xuống biển. Nhưng do phép mầu nhiệm của đức Phật, người đàn bà ấy hóa thành con muỗi. Vì thiếu máu, nên lúc nào muỗi cũng lén lút chích trộm của mỗi người một tí để sống.[16]
Khảo dị
Việt Nam còn có truyện Lương Nhân có lẽ cũng từ truyện “ Sự tích con muỗi” phát triển ra.
Lương Nhân quê ở Vĩnh Yên, lấy vợ tên Thị Xuân. Vợ chết, Lương Nhân quá thương, cõng xác vợ theo mình không rời, Phật thương tình hiện lên phun ba ngụm nước cho Thị Xuân sống lại. Một hôm vợ chồng có việc đi xa, ngủ nhờ ở thuyền. Trong lúc Lương Nhân ngủ say thì vợ chồng theo ông chủ thuyền. Lương Nhân gặp lại đức Phật. Đức Phật bảo đến đòi ba ngụm nước, Thị Xuân phun xong ngã lăn ra chết.
Sau đó Lương Nhân gặp Hán Chân. Hai người lấy nhau, kiếm ăn rất chật vật. Một hôm Lương Nhân đi vắng, một người khác lại thấy Hán Chân có sắc đẹp liền ve vãn nhưng bị nàng cự tuyệt. Để mua chuộc, người khách xin hai miếng trầu và đưa cho nàng hai trăm lạng bạc. Hán Chân nhận và khi chồng về nàng kể lại sự thật. Lương Nhân ngờ vợ và định giết vợ. Vợ trốn đi, cải trang làm con trai vào học ở một ngôi chủa ở Sơn Tây. Đã đẹp lại học giỏi nên sư nữ Thị Vân đâm mê Hán Chân, hẹn hò làm vợ chồng.
Được mấy năm, Hán Chân đổi tên Lương Nhân đi thi đỗ Trạng, được vua gả Công chúa. Hán Chân xin phép về quê mở hội làm chay. Lương Nhân bấy giờ làm nghề nông, nghe có hội, đem rau đến bán. Vợ chồng gặp nhau. Phật hóa phép cho Lương Nhân thành một chàng trai đẹp đẽ thông thái. Hán Chân đưa chồng về triều tâu rõ sự việc. Vua gả Công chúa cho Lương Nhân làm vợ hai. Thị Vân cũng được đón về làm vợ ba.[17]

10.SỰ TÍCH CON KHỈ

Ngày xưa có một người con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói.
Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì cô gái phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ.
Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già. Ông cụ có vẻ đâu từ xa lại, dang điệu mệt nhọc, đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vục nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về.
Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng đưa cho ông già và nói:
-Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói.
Ăn xong, ông cụ bảo nàng:
-Hồi nãy con làm sao mà khóc?
Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.
-Ta là đức Phật, ông cụ nói tiếp, ta thấy con có lòng tốt. Nếu con muốn gì, Ta sẽ làm cho con vui lòng.
Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái đáng thương chỉ là làm sao cho bớt xấu xí. Ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào đẹp, múc lấy thì sẽ được toại nguyện. Khi xuống giếng, cô gái chỉ múc lấy bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻ xinh xắn, đồng thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp.
Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh đẹp đến nỗi họ không nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một ít. Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của. Họ đưa xôi thịt ra mời rối rít:
-Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi. Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với.
Đức Phật bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước.
Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên lội xuống giếng đều tìm hoa đỏ múc lấy múc để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không phải trẻ lại mà già thêm; mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy người, đằng sau lưng là cả một cái đuôi. Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn; -“ Kìa trông con quỉ, nó cắn bà con ôi!”. Nhưng lại có những tiếng khác: -“Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì!”.
Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại.Cả họ nhà trưởng giả kinh hoảng bỏ chạy một mạch lên rừng. Từ đó, cô gái cùng với một số người nghèo hầu hạ trưởng giả được thừa hưởng gia tài của họ.
Lại nói chuyện trưởng giả và họ hàng nhà hắn đành phải ẩn náu trong rừng sâu, ngày ngày kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi lom khom, áo quần rách nát trông rất thiễu não. Nhưng chúng vẫn tiếc của, cho nên thỉnh thoảng ban đêm chúng lại mò về, hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà lêu léo nhéo suốt đêm, gần sáng trở lại về rừng.
Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá. Đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm cách đuổi chúng.Họ bôi mắm tôm vào các song cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày đặt rải rác ở cổng các nhà.
Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mò đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay, rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu oái oái , rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về nữa.
Những khi lên rừng hái củi, người ta vẫn thỉnh thoảng gặp chúng. Thấy bóng người từ đàng xa, chúng liền chuyền theo nhành cây, lủi nhanh thoăn thoắt. Người ta gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ thuộc nòi trưởng giả. Còn những con khỉ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấy vết bỏng của tổ tiên.[18]

11.SỰ TÍCH CHÙA NGỌC HỒ

Chùa này dù có tiếng là một cổ tích, nhưng nền nếp kiến trúc cổ sau bao cơn loạn lạc, đều lần lượt bị tàn phá hết, mãi đến năm Ất Hợi ( 1935) mới sửa chữa lại như quang cảnh ngày nay.
Chùa này xưa kia làm nền trên một cái gò, giữa gò cao vót lên như hình một cái hồ rượu, nên gọi là chùa Ngọc Hồ. Bên trong hồ có đáy sâu xuống chừng ba bốn thước, có nước rất trong và lúc nào cũng đầy. Sau khi sửa lại chùa, Ngọc Hồ ở vào ngay cửa giữa tam quan, có làm nắp đậy, để lấy lối đi lại lên trên.
Chùa dựng lên từ năm Kiến Gia thứ tám (1218) đời vua Huệ Tôn nhà lý. Đến đời Trần, đổi gọi là chùa Tiên Phúc, vì theo tục truyền thường có nàng tiên hiện thân đi tha thướt ở trước chùa này là chùa Ba Ngô, truyền rằng về đời nhà Mạc ( 1527-1529) một người đàn bà ta lấy một nhà buôn Hoa kiều, nhà rất giàu, tự bỏ của riêng đứng ra làm chùa( Ngô mà danh từ xưa kia vẫn dùng để chỉ các người Hoa kiều sang làm ăn buôn bán ở xứ ta).
Trong chùa hiện chia làm ba phần, phần giữa để thờ đức Phật; bên tả là nhà hậu, thờ những người có công đức với chùa; phần bên hữu thờ chư vị, vị chính là bà Liễu hạnh Công chúa, ở cửa ngoài có một câu đối quốc văn , tả về thân thích bà:
Chẳng thiêng cũng bụt chùa nhà; gái Thanh Hóa nữ thần có một.[19]
Đẹp nhất là tiên hạ giới, cõi Nam thiên bất tử hòa tư.[20]
Về phần bên hữu này, ngoài cùng thờ tượng Lê Thánh Tôn. Theo tục truyền, Lê Thánh Tôn là người đã từng có nhân duyên quả kiếp với chùa. Có một hôm, nhà vua ngự kiệu đi vãn cảnh danh lam, khi tới gần chùa Ngọc Hồ, nhác thấy một người con gái đẹp đang đứng trên gác chuông ngắm cảnh và cất tiếng ngâm câu:
Ở đây mến cảnh mến thầy,
Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người.
Vào tới chùa, nhà vua đi thẳng lên gác chuông hỏi người con gái:
-Vừa nghe mấy lời châu ngọc, biết nàng quả có văn tài, duyên tao phùng dễ có mấy khi, để ghi nhớ phút kỳ ngộ này, xin tài nữ hãy cùng trẫm chia vần xướng họa, nên chăng?
Người con gái nhận lời, và xin nhà vua xướng trước. Vua xin nàng cho biết đầu đề, nàng lấy ngay câu thơ vừa ngâm lúc nãy làm đầu đề. Vua ứng khẩu đọc ngay:
Ngẫm sự trần duyên khéo nực cười,
Tuy vui đạo Phật chửa khuây người.
Chầy kinh mấy khắc tan niềm tục,
Hồn bướm ba canh lẫn sự đời.
Bể thảm muôn tầm mong tát cạn,
Sông ân ngàn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào Cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười.
Vua đọc xong, xin nàng cho biết ý kiến.Nàng xin cho được đổi mấy chữ: Chày kinh mấy khắc đổi là gió xuân dưa kệ, ba canh đổi là mơ tiên, thảm đổi là khổ, sông đổi là nguồn. Nhà vua rất thán phục và xin nàng họa lại. Nàng nói:
-Ý thiếp đã đủ cả trong câu mệnh đề, không còn nói gì hơn nữa, vả chăng đứng trước ngọn Thái Sơn, gò đống cũng khó nói được là cao lớn. Nay xin tạm miễn, còn nhiều hội ngộ về sau.
Nhà vua cười, rồi mời nàng cùng lên kiệu về cung. Không chối từ, nàng trèo lên kiệu cùng đi,nhưng khi kiệu vừa về đến bên ngoài cửa Đại Hưng (một cửa ở ngoài phía nam hoàng thành) thì nàng biến mất. Nhà vua biết là tiên, cho lập một lầu cao ngay ở đó, gọi là Vọng Tiên lâu, để đôi khi trèo lên trông ngóng, may chăng còn gặp bóng hồng. Lầu này ở vào chỗ quán Vọng Tiên, phố Hàng Bông ngày nay.
Vì chùa Ngọc Hồ có tên là chùa Tiên Phúc, nên có nhiều người lầm với chùa Tiên Tích ở phố Hàng Cỏ. Chùa Tiên Tích vốn là một danh lam ở thủ đô, cuối đời Lê, chúa Trịnh Sâm cho sửa sang lại, bên cạnh dựng tòa ly cung để đôi khi mang cận thần và phi tần ra đó nghỉ mát. Trong chùa có hồ rộng mười mẫu, có tháp cao chín tầng và có nhiều hình giống vật bằng đá của nước Chiêm Thành, do chúa Trịnh Tráng vào đánh chúa Nguyễn ở miền Nam lấy được đem về. Chẳng bao lâu gặp loạn, chùa bị phá hết không còn gì, về sau người ta chỉ lập nên một tòa chùa nhỏ. Đến nay, chùa ấy chỉ còn là một gian nhà thường chật hẹp, mang biển số nhà 110 ở đường Lê Duẫn ngày nay.
(Cổ tích và Thắng cảnh Hà Nội, Doãn Kế Thiện NXB Hà Nội 1999)

12-SỰ TÍCH CÁ HE [21]

Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu luyện, sư thuộc lòng tất cả các kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi vẫn chưa được thành chánh quả. Sư bụng bảo dạ:-“ Phải đến đất Phật một phen mới có hy vọng thành Phật”. Nghĩ vậy, sư ta mới quyết chí tìm đường sang Tây Trúc.
Đường đi từ nước nhà sang Tây Trúc ngày đó thật muôn phần vất vả. Việc giao thông hầu hết là bằng đường bộ, mà đi bộ trên con đường mịt mùng thăm thẳm thì mỗi bước là một hiểm nguy. Nhưng nhà sư trẻ tuổi vẫn quả quyết nhắm hướng Tây tiến bước.
Cuộc hành trình đã được năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều ngày lạc đường và mấy lần mê man vì sốt, nhưng nhờ được sự giúp đỡ nên đều qua khỏi và chàng vẫn tiếp tục cuộc đi thăm đất Phật.
Một hôm,sư đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi an nghỉ vì trong người đã thấy ớn rét May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà.Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sàn.Sư tỏ ngay ý định của mình là xin ngủ nhờ một đêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách đã xua tay rối rít:
-Đi mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng đâu.
Sư đáp:
-Tôi bây giờ thiệt là kiệt sức, không thể nào bước được nữa.Nếu không cho nghỉ thì cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi.
Bà cụ bảo:
-Chao ôi! Con ta vốn là Ác Lai hay ăn thịt người.Cố đi nhanh lên, nó sắp về rồi đó.
Nhưng sư đã chắp tay nải, nằm vật xuống đất, hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay y lôi đến một cái hầm đá lớn.Sau khi đẩy vào, bà cụ bảo y phải cố giữ cho thật im lặng, để tránh một cái chết thê thảm. Đoạn bà cụ chất củi,phủ lá rất kín đáo.
Trời tối hẳn thì Ác Lai về đến nhà, tay xách một con mang.Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi. Hắn nói:
-Có mùi thịt mẹ ạ!
Mẹ hắn đáp:
-Thì chả là thịt của mày mang về đấy là gì?
-Không phải.Thịt người. Con biết lắm.Có thịt người.
Bà cụ chưa kịp cản thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm.Chẳng mấy chốc, hắn đã lôi được nhà sư bất tỉnh nhân sự từ dưới hầm về nhà mình.
Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy Ác Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát:
-Mày đi đâu?
Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì người thường bèn tỉnh táo đáp:
-Tôi đi tìm Phật.
-Tìm để làm gì?
Sư bấy giờ mới rõ mục đích của mình, rồi luôn miệng, sưgiảng giải đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể lại bao nhiêu nỗi gian khổ của mình dọc đường và niềm mong muốn cuối cùng là làm sao được nhìn mặt đức Phật để Phật độ cho thành chánh quả. Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ác Lai đều cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho biết là họ cũng sẽ trở nên “ vô sinh vô diệt”, sẽ sống một đời sống vô cùng sung sướng trên Niết-bàn, nếu họ kiên quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác bấy giờ đã dịu lại.
Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho chàng. Họ tiễn đưa sư sang tận bên kia một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, Ác Lai hỏi:
-Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây?
Sư đáp:
-“Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm”. Chỉ dâng tấm lòng mình là đủ.
Sư không ngờ Ác Lai đã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch bụng mình lôi ra cả mớ ruột gan đưa cho sư và nói:
-Nhờ Hòa thượng dâng hộ đưa lên đức Phật.
Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì Ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết làm thế nào đây. Cuối cùng sư ta đành nhìn vào cặp mắt của Ác Lai, gật đầu nhận lời, rồi gói bộ lòng của con người đáng thương đó lại và quảy lên vai, cất bước lên đường.
Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, hiển lộ ra trước mặt mình mênh mông bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư thì chẳng vui tí nào. Món lễ vật của đức Phật đè nặng trên vai.Nếu chỉ có thế thì không có gì đáng ngại cholắm. Khổ một nỗi là mùi thối từ bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư đã bọc nó ba tầng bốn lớp mà mùi thối vẫn nồng nặc. Sư lẩm bẩm:-“ Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình?”.Qua ngày hôm sau, không thể chịu nỗi nữa, sư bèn vứt bộ lòng Ác Lai xuống biển.
Nhà sư đi mãi rồi cũng đến Tây Trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật đài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo rằng:
-Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả.
Sư rất đỗi kinh ngạc,cố ngước mặt lên nhìn một tí. Trên cao vòi vọi, sư thấy đức Phật ngự giữa tòa sen trắng sáng ngời, sau lưng có bóng dáng hai người tựa hồ như hai mẹ con Ác Lai.Sư bỗng hiểu hết. Đức Phật đã rõ sư thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi; còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ là nhờ sự ngộ đạo đột ngột và chân thành trong phút chốc. Sư nằm phục vị hồi lâu, trong lòng thẹn thùng vô kể.
Nhà sư trẻ sau đó lại trở về chốn cũ để tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông sâu thẳm, nhưng sư cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai đã gửi cho mình và hy vọng gần gũi tòa sen đức Phật. sư bơi lên lặn xuống mãi. Sau đó sư hóa làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he,[22],cũng gọi là cá nược, hay có nơi cũng gọi là cá ông sư. Vì cho đến ngày nay dòng dõi loài cá đó con nào con nấy cũng có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm việc của nhà sư, nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn không chịu nghỉ.
Những người đánh cá còn nói loài cá he rất nghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu chọc nghĩa là gợi lại chuyện của tổ tiên chúng nó, chúng nó sẽ làm cho thuyền đắm, rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi reo hò thì chúng nó sẽ lặn xuống nổi lên nhiều lần cho mà xem[23].
Khảo dị
Truyện kể trên lưu hành ở miền Nam. Nhân dân miền Bắc kể chuyện này cũng một nội dung nhưng khác tên gọi. Đó là Sự tích chim bìm bịp:
Một sư nữ chân tu, ăn chay niệm Phật bao nhiêu năm ròng nhưng chưa đắc đạo. Một hôm, sư quyết định sang Tây Trúc để hỏi Phật duyên cớ vì sao.
Sau mấy tháng trời ngày đi đêm nghỉ, một ngày kia sư đến một khu rừng thẳm. Trời đã xế chiều, sức đã kiệt thì may sao, sư trông thấy một cái nhà bên đường. Nghe tiếng gõ cửa, một người đàn bà bước ra vội vã xua tay rối rít, bảo khách đi nhanh lên kẻo con mình là yêu, hễ bắt được người nào là ăn thịt.Nhưng thấy sư nữ năn nỉ quá , chủ nhân lấy cơm cho ăn rồi bảo chui vào trong một cái vại đậy lại cẩn thận.
Yêu con về đánh hơi thấy mùi thịt người, cố tìm cho kỳ được. Yêu mẹ thấy con sắp sửa ăn thịt sư nữ thì hết lời khuyên can:
-Đó là một nhà tu hành. Nếu con ăn thịt người ấy, Phật sẽ không dung thứ.
Nghe nói, yêu con dần dần tỉnh ngộ, bày tỏ sự hối hận của mình cho sư biết. Hắn đã ăn thịt rất nhiều người và bây giờ hắn mong muốn chuộc tội. Cuối cùng ,yêu con hỏi sư nữ:
-Tôi muốn sửa lỗi để theo Phật. Chẳng hay sẽ dùng cái gì để ra mắt?
Sư đáp:
-Phật chỉ cần tấm lòng mà thôi!
Thế là yêu con rút dao rạch bụng lôi cả ruột gan ra và nói:
-Nhờ chuyển giúp cho tôi vật này làm lễ dâng Phật.
Sư nữ không ngờ hắn lại hiểu nhầm như vậy, đành nhận lời, quảy bộ lòng lên đường. Nhưng được mấy ngày bộ ruột nặng mùi quá, không sao chịu được, sư nữ quên cả lời hứa, quẳng vào bụi rậm và tiếp tục đi nữa.
Đến Tây Trúc, khi nhà sư vào lễ Phật thì đức Phật ở trên toà sen bảo:
-Còn thiếu một nữa mới thành chánh quả.
Sư nữ hiểu ra, òa khóc, nói mình đã kiệt sức, không biết làm thế nào mà tìm được. Phật cho nàng hai chiếc cánh để đi cho chóng và bắt tìm cho ra.
Nhưng còn biết đâu mà tìm. Sư nữ khóc liên miên , ngày đêm chui rúc từ hết bụi mày đến bụi khác, thỉnh thoảng lại lên tiếng thở than, phảng phất như tiếng “ bìm bịp”. Tìm không được, nhưng sư cứ phải tìm mãi. Rồi sau đó sư hóa thành loài chim đầu đen, mình nâu, mắt đỏ như máu, người ta gọi là chim bìm bịp. Đó là hình dạng của sư nữ đầu chít khăn đen, mình mặc áo vải nâu già. Còn mắt đỏ là vì khóc nhiều mà sinh ra thế[24].
Tóm lại, ba cốt truyện trên có lẽ xuất phát từ một Phật thoại và đã được sửa chữa tô điểm thành truyện cổ tích dân gian.
Theo Mỹ Ấn tùy bút thì mẹ Ác lai được Phật độ cho làm Mụ Thiện. Ác Lai trở thành hai vị Hộ pháp được Phật cho giữ chùa mà ta thường gọi là ông Thiện ông Ác. Tại sao một người lại hóa thành hai? Đó là vì tuy là một nhân vật nhưng kể từ khi rạch bụng cúng Phật đã tách thành hai con người khác hẳn. Ông Thiện là hiện thân của quãng đời sau của Ác Lai ( thời kỳ ngộ đạo), ông Ác là hiện thân của quãng đời trước ( chưa ngộ đạo).
Trong Kinh Tam Tạng có truyện tương tự:
Ngày xưa con gái Long Vương đi chơi trên trần bị một người chăn bò trói đánh. Vua nước ấy bắt gặp, sai cởi trói thả về. Về nhà, Long Vương hỏi con gái tại sao lại khóc. Cô gái vu cho vua trên trần đánh.Long Vương bèn hóa thành rắn tìm lên trần, nấp dưới giường vua, bỗng nghe vua nói với vợ:
-Hôm nay ta đi chơi gặp một cô gái bị đứa chăn bò đánh, được ta giải thoát cho.
Ngày hôm sau, dưới lốt người, Long Vương đến gặp vua trần nói:
-Ông đã làm một việc tốt là cứu con gái tôi. Nay ông muốn gì tôi sẽ cho nấy.
Vua nói:
-Vật quý tôi đã có nhiều. Tôi chỉ muốn hiểu tiếng loài vật.
-Ông cứ trai giới trong 7 ngày sẽ được như ý. Nhưng phải giữ kín đừng cho ai biết.
Từ đấy, vua Trần quả nghe hiểu được tiếng muôn loài.
Một hôm đang ăn với hoàng hậu, vua bỗng thấy bướm cái bảo bướm đực kiếm cho nó thức ăn. Bướm đực trả lời ai kiếm nấy ăn. Bướm cái nói bụng nó không muốn thế. Vua cười một mình. Hoàng hậu hỏi, vua nín lặng. Một lần khác, vua ngồi với hoàng hậu thấy hai con bướm gặp nhau, cãi nhau và cả hai đánh nhau rơi xuống đất. Vua lại cười. Hoàng hậu hỏi đến ba lần, vua đều không nói. Nhưng khi hoàng hậu doạ sẽ tự vẫn, thì vua đành bảo chờ mình đi dạo một lát rồi sẽ cho biết vì sao mà cười.
Để cảnh tỉnh vua trần, Long Vương hóa thành một bầy dê lội sông. Một con dê cái gọi chồng trở lại đưa mình đi.Dê chồng nói không thể đưa được. Dê vợ cũng đòi tự tử và nói:
-Anh không biết có ông vua nước kia sắp chết vì vợ mình đó ư?
Dê chồng đáp:
-Ông vua ấy chết cho vợ là vì hắn ngốc.Mày cứ chết đi, ta không thiếu gì dê cái.
Vua Trần nghe nói thế, tự nghĩ mình thua sự sáng suốt của con dê đực. Lúc trở về hoàng hậu lại vật vã đòi tự tử. Vua đáp:
-Cứ chết đi, trong cung ta thiếu gì cung phi, cần gì một thứ mày.[25]

13. SỰ TÍCH CÁI CHÂN SAU CON CHÓ

Ngày xưa có một người đàn bà tên là Thanh Đề rất sùng đạo Phật.Bà ta sùng Phật đến nỗi cho rằng những cơm bánh do lúa gạo người ta trồng ra ở đồng ruộng thì không thể nào được tinh khiết, mà đã thế thì không thể đem cúng Phật. Vì thế, hằng năm bà ta trồng lúa nếp trong những cái gáo dừa đựng đất sạch. Luôn luôn bà treo cái gáo đó lên một chỗ cao vì sợ có người bước qua. Khi lúa chín, bà thận trộng rứt từng hạt một, giã nó bằng một con dao mới tinh, rồi mới đưa nắm gạo đó đựng vào bát thờ mà dâng lên chùa.
Một hôm, ở một ngôi chùa lớn trong vùng có mở hội đón tiếp khách thập phương. Vị Hòa thượng chùa ấy cắt đặt một số sư tiếp nhận những lễ vật của thiện nam tín nữ đem đến cúng Phật.Bà nghe tin không quản đường xa, vội đưa nắm nếp tinh khiết của mình tìm đến dâng cúng ở chùa đó. Không ngờ mấy vị sư kia chỉ chú ý đến lễ vật hậu hỉ của những người khác, mà chả ai nghĩ đến bà và nắm gạo của bà. Chờ suốt một ngày không thấy ai nhận, người đàn bà nọ tức mình, ném nắm gạo xuống đất rồi bỏ về.
Ít lâu sau, bà ta sắm sửa một lễ cúng Phật tại nhà mình rồi mời Hòa thượng và các sư ở chùa đó đến tụng kinh. Theo lệ thường, trước khi ra về, chủ nhân phải làm bánh tặng họ ăn đường. Để làm nhục bọn sư bất lương, bà ta giết một con chó, lấy thịt băm nhỏ với các thứ rau thơm làm nhân bánh. Sau bữa cơm chay, bà ta đem bánh đó tặng mỗi người một chiếc. Đoán được âm mưu của người đàn bà, vị Hòa thượng dặn các nhà sư cầm bánh về chứ đừng ăn. Họ đều vâng lời, duy chỉ có một nhà sư quên mất. Dọc đường thấy bánh thơm ngon, sư ta bèn bóc ăn kỳ hết. Những người khác khi đưa bánh về biết là nhân thịt chó đều quăng cả vào gốc cây Bồ Đề ở trước chùa.
Tất cả những việc đó đều thấu tai đức Phật. Trước hết, đức Phật trị tội bọn sư tham lam và bất lương. Bọn họ bị bắt xuống địa ngục. Con chó chết oan được sống lại. Nhưng vì nó đã bị nhà sư ăn mất một chân nên lúc trở về cõi thế chỉ còn có ba chân. Đức Phật thấy thế chắp cho nó một chân giả khác để tiện đi lại.[26].Những thứ rau thơm làm nhân bánh bị vứt dưới gốc Bồ -đề cũng nhờ phép Phật mọc lại xanh tốt. Đó là ba cây rau om, hành và sả. Vì những cây ấy bị nhà chùa coi là đã bị uế tạp cho nên sau này những người xuất gia đều kiêng không dùng. Về phần người đàn bà cũng bị tôi nặng: Phật bắt bà ta bỏ vào tầng ngục thứ mười. Có người bảo đó là mẹ ông Mục Liên, sau này ông từng xuống đó thăm mẹ.

14.SỰ TÍCH ÔNG ĐẦU RAU [27]

Ngày xưa, có hai vợ chồng son nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước.
Một năm trời làm mất mùa, hạt gạo kiếm ăn rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi miền.Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai quấy nhiễu.
Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào nhưng tình thế vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận đói còn kéo dài.Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ:
-Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được.
Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết cho có bạn. Nhưng người chồng bảo:
-Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác.
Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm thế nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi.
Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Ở đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ lanh lẹ và xinh xắn, nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng.
Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bới nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua. Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Nhưng cây bưởi trước sân đã ba lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng.
Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đói, vừa chết vợ. Sẵn có cảm tình với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là:
-Chồng tôi hẹn trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo.
Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không một nét chữ, một lời đồn về người xấu số. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia giục nàng quyết định:
-Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập một gia đình khác ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập gia đình mới. Sức của tôi và của của tôi đủ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời.
Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin ráng chờ một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới.
Đột nhiên sau đó ba tháng, người chống cũ xách khăn gói về quê hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu . Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm:-“ Thế là hết. Bởi số cả!”
Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng mới cưới không còn biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám dàn mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ:
-Tôi đi vắng lâu quá.Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử xự như thế rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi.
Mặc dầu người vợ nài nỉ hết sức, mắc dầu người chồng mới đoan xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Đầu óc rồi như mớ bòng bong. Chàng nghỉ đến cái chết và trong một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng.
Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được bảy năm trời mà không rán chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt?Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng.
Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà.
Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to:-“ Tại sao ta cố ý cướp vợ của người khác?”. Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử.
Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm Vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự thật ôm ấp trong lòng.
Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có ba tháng. Khi Diêm Vương hỏi tình của chàng đối với vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng.
Diêm Vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm Vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời, vua còn phong cho họ chức Táo quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế.[28]

15.SỰ TÍCH CHÙA BÓNG

Xưa, xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, có tên là làng Bóng. Làng này, có ngôi chùa, tên chữ là Quang Minh Tự, nhưng dân gian vẫn thường gọi là chùa Bóng, các thư tịch cổ như Lĩnh Nam chích quái, Công dư tiệp ký, Đại Nam nhất thống chí…đều có chép về chùa này.
Chùa Bóng được khởi công xây cất vào cuối thời Trần. Lúc đầu, chùa chỉ có quy mô nhỏ, vật liệu thuộc loại thường. Các đời nối nhau cũng tổ chức trùng tu, nhưng chùa Bóng cũng chẳng thể nhờ thế mà tồn tại được thật lâu. Năm 1578, triều đình vua Lê Thế Tông ( 1573-1599) và phủ chúa Trịnh Tùng (1570-1623) đã cấp kinh phí để xây cất lại chùa Bóng gần như mới hoàn toàn. Đến cuối thế kỷ mười chín, chùa Bóng vẫn còn nổi tiếng là một trong những ngôi chùa đẹp. Sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn chép rằng: “ Chùa Quang Minh ở xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc có ngàn cây xanh biếc, bốn mặt nước trong, xa xa phía trước có đường cái chạy qua và có dòng sông bao bọc, thật xứng đáng là một thắng cảnh của thiền lâm”.
Quang Minh tự rất đẹp, nhưng ngôi chùa này được biết đến nhiều nhất không phải là vẻ đẹp của khuôn viên nơi chùa tọa lạc, mà trước hết là bởi công lao hoằng dương Phật pháp và đạo hạnh của một trong số các bậc cao tăng Trụ trì tại chùa này là Thiền sư Huyền Chân ( tức Ma-ha Sa-môn). Quang Minh tự sự tích cho hay, Thiền sư Huyền Chân người làng Hàm Nghi, xả Danh Hương (nay thuộc huyện Kiến xương, tỉnh Thái Bình) thế danh là Đức, sinh và mất năm nào chưa rõ. Sách Công dư tiệp ký của Tiến sĩ Vũ Phương Đề ( 1698-?) còn cho biết thêmrằng, Thiền sư Huyền Chân cũng tức là Thiền sư bật Sô.
Tương truyền rằng khi đã về già, một hôm, Thiền sư Huyền Chân nằm mơ thấy Phật A Di Đà ( Amitabhâ) đến nói cho biết rằng:
-Ngươi dày công với Phật sự đã lâu, lòng tư bi của ngươi đã dược Phật Tổ thấu hiểu, vì thế, đến kiếp sau, ngươi sẽ được làm Đại đế ở phương Bắc.
Tỉnh dậy, Thiền sư Huyền Chân liền kể hết với đệ tử của mình và dặn:
-Sau này, lúc thầy viên tịch, các con hãy lấy son viết lên vai thầy mấy chữ An Nam quốc, Quang Minh tự, Sa Việt Tì khưu trước khi đem nhục thân của thầy đi hỏa thiêu.
Đệ tử chăm chú lắng nghe và về sau làm theo đúng ý của Thiền sư Huyền Chân.Nếu dừng lại ở đó, chuyện này bất quá chỉ có Thiền sư Huyền Chân cùng các đệ tử và một số Phật tử nhất định nào đó của chùa Quang Minh biết được mà thôi.
Năm Hoằng định thứ sau (tức năm Giáp Thìn 1604), triều đình vua Lê Kỉnh Tông ( 1599-1619) và chúa Trịnh Tùng ( 1570-1623) mở khoa thi Hội, lấy đỗ bảy vị, gồm hai Hoàng Giáp và năm Tiến sĩ. Trong số năm Tiến sĩ này, có Nguyễn Tự Cường[29], người làng Tiền Liệt, huyện Vĩnh Lại ( nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Ông sinh năm 1570, tức khi đỗ đại khoa, ông đã 34 tuổi, làm quan, trải phong dần đến chức Lễ Bộ Hữu thị lang, tước Xuân Quận công. Ông từng được cử đi sứ sang nhà minh ( Trung Quốc) và chuyện ly kỳ về Thiền sư Huyền Chân gắn chặt với chuyến đi sứ này của ông. Tương truyền, khi sang Trung quốc, Hoàng đế của Trung Quốc lúc bấy giờ là Minh Thần Tông ( tức Chu Hủ Quân, sinh năm 1563, lên ngôi năm 1572, mất năm 1620, hưởng thọ 57 tuổi), có nói với Nguyễn Tự Cường rằng:
-Người ở nước Nam, vậy có biết chùa Quang Minh của nước Nam ở đâu hay không?
Nguyễn Tự Cường đáp là không biết. Minh Thần Tông nhân đó mới nói với Nguyễn Tự Cường rằng:
-Lúc mới sinh ra, trên vai ta đã có hàng chữ son, nói rõ kiếp trước của ta chính là vị Thiền sư ở chùa Quang Minh. Nay, ta muốn xóa dòng chữ ấy đi mà chưa biết phải làm như thế nào.
Nguyễn Tự Cường thưa:
-Thần nghe nói nhà Phật có nước công đức để tẩy trần. Nếu Bệ hạ là kiếp sau của Thiền sư Trụ trì chùa Quang Minh thì phải lấy nước giếng của chính chùa Quang Minh mới có thể rửa được.
Về nước, Nguyễn Tự Cường đem việc này tâu với triều đình. Triều đình quyết định lấy nước giếng của chùa Quang Minh tiến dâng cho Minh Thần Tông. Minh Thần Tông dùng nước ấy để rửa thì quả là rất hiệu nghiệm, vì thế, đem 300 lạng vàng thưởng cho Nguyễn Tự Cường. Ông liền đem toàn bộ số vàng này cúng cho chùa Quang Minh để lo việc trùng tu.
Ghi chép của Quang Minh tự sự tích chuẩn xác đến mức độ nào, có lẽ chúng ta sẽ bàn đến vào một dịp khác. Ở đây, điều đáng nói nhất lại là ở chỗ, dân làng Bóng, dân Gia Lộc, dân Hải Dương, dân của một bộ phận xứ Đàng Ngoài thuở trước, rất tin rằng, kiếp sau của Thiền sư Huyền Chân chính là vua Minh Thần Tông bên Trung Quốc. Sao lại chẳng thể tin, khi mà chuyện gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của một bậc đại khoa Nho học, từng là người cầm đầu phái bộ sứ giả của nước nhà sang Trung Quốc? Sao lại chẳng thể tin, khi mà chuyện liên quan đến những quyết định hệ trọng của triều đình vua Lê-chúa Trịnh đương thời?
Xưa nay vẫn vậy, đôi khi vì mãi tìm cái sai, người ta không còn thấy được cái đúng ở đâu nữa. Có địa linh tất sẽ sinh nhân kiệt. Xin hãy gạt ra ngoài những điều khó tin để thấy một niềm tin đúng đắn và mãnh liệt của dân làng Bóng, dân Gia Lộc…rằng, nếu Thiền sư Huyền Chân là nhân kiệt thì đất quê hương họ, nơi Thiền sư Huyền Chân tu hành, chính là địa linh. Trong mọi niềm tin, niềm tin rằng đất sinh thành của mình thực sự là địa linh, có lẽ đáng xếp vào hàng thiêng liêng và có giá trị quan trọng nhất. Nghị lực vươn lên, chí tiến thủ và bản lĩnh vào đời của mỗi người thường có một trong những nguồn gốc tạo lập từ đây. Vị trí của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam nào phải chỉ bó hẹp trong những trang giáo lý, trong những buổi thuyết giảng, trong những nghi lễ chùa chiền…Lý lịch của Thiền sư Huyền Chân trong Quang Minh tự sự tích chừng như còn có một cái gì đó đặc biệt hơn, đáng quý hơn và đã góp phần làm tỏ rõ được điều này.
Triết lý sống của tổ tiên ta là vậy. Tất cả những ai trọn kiếp dày công tu nhân tích đức đều là những người sống mãi với muôn kiếp sau. Như Thiền sư Huyền Chân chẳng hạn. Ngẫm mà xem!
(Truyện kể về một trong những bậc Trụ trì của chùa của Gs.Nguyễn Khắc Thuần)
(Giác Ngộ số 163 ra ngày 15/5/99)

16.SỰ TÍCH THIỀN SƯ PHÁP THUẬN

Ngài tu ở chùa Cổ Sơn,làng Thừ, quận Ái. Không biết người ở đâu, Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.
Đang vào lúc nhà Lê mới dựng nghiệp, trù kế hoạch định sáng lược, Sư tham dự đắc lực. Đến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng, Vua Lê Đại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư.
Năm Thiên Phúc thứ 7 ( 987) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:
“Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời”.
Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:
“Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi”.
Giác do đó thán phục.
Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp:
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh.
Năm Hưng Thống thứ 2 (990) Sư tịch, thọ 76 tuổi (925-990).
(Thiền Uyển Tập Anh-Lê Mạnh Thát dịch-NXB,TPHCM 1999).
Khảo dị
Đỗ Pháp Thuận, nhà Sư, nhà Sử, nhà Thơ[30], thường được gọi là Đỗ Thuận hay sư Thuận là người học rộng, tho hay, giỏi việc đối đáp nên được vua Lê Đại Hành mời vào triều bàn việc nước. Nhiều lần vua định phong chức nhưng ông đều không nhận.
Vào mùa xuân năm 987, vua Tống lại sai Lý Giác sang sứ nước ta. Vua Lê Đại Hành biết Lý Giác là người giỏi văn thơ nên đã sai sư Thuận giả làm người chèo đò ra đón sứ Lý Giác ở chùa sông Sách Giang. Khi qua sống, Lý Giác trông thấy xa xa có hai con ngỗng trời bay, liền đọc hai câu thơ:
“Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha”
Dịch Nghĩa:
“Ngỗng ngỗng, hai con ngỗng
Ngửa mặt nhìn chân trời”
Sư Thuận nghe xong, tay vẫn nhịp nhàng chèo thuyền và đọc tiếp 2 câu thơ sau thành một bài thơ tứ tuyệt:
‘Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba”
Dịch nghĩa:
“Nước lục phô lông trắng
Chèo hồng sóng xanh bơi”[31]
Lý Giác thấy người lái đò cũng hay chữ như vậy đã kinh ngạc và cảm phục. Khi về đến công quán, Lý Giác làm một bài thơ gửi cho sư Thuận. Bài thơ viết bằng chữ Hán:
(Dịch):
“May gặp thời binh giúp kế hay
Thân này hai lượt sứ Giao Châu.
Đông đô mấy độ còn lưu luyến,
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu,
Ngục vượt khói mây xuyên sóng núi,
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu.
Ngoài trời lại có trời soi nữa.
Sóng lặng khe dầm bóng nguyệt thâu”.
Sư Thuận đem bài thơ ấy dâng vua. Vua triệu sư Khuông Việt vào xem. Khuông Việt nói: “Bài thơ này sứ giả tôn bệ hạ không khác gì vua của ông ta”. Vua khen bài thơ và tặng Lý Giác rất hậu. Khi Lý Giác từ biệt, vua sai Khuông Việt làm một bài thơ tiễn chân. Bài thơ theo điệu “ Tống Vương lang quy”.
Dịch:
‘Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương
Trông vị thần tiên về đế hương.
Muôn lần non nước vượt trùng dương.
Đường về bao dặm trường,
Tình lưu luyến chén đưa đường,
Nhớ vị sứ lang
Xin lưu ý việc biên cương,
Tâu rõ lên thánh hoàng”.
Lý Giác lạy tạ vua lên xe về Bắc.

17.SỰ TÍCH ÔNG BÌNH VÔI

Ngày xưa, có một người con gái con một nhà giàu có. Cô rất đẹp nhưng cũng rất kiêu. Cô đã từng làm cho các bạn gái xa lánh mình. Cô làm cho các chàng trai ghét cô vô hạn. Cũng vì thế đến tuổi lấy chồng, cô gái vẫn chưa có đám nào vừa ý. Chàng trai nào cũng bị cô sổ toẹt, vì”cao chê ngỏng, thấp chê lùn, lớn chê béo trục béo tròn, gầy chê xương sống xương sườn bày ra”.
Nhưng rồi cô cũng lấy được chồng. Chồng cô yêu vợ nhưng lại bực mình vì thói ghen của vợ. Cô ghen chồng làm cho xóm giềng luôn luôn cau mặt vì những lời qua tiếng lại của họ. Cuối cùng hai người không vừa ý nhau và ly dị. Buồn bực vì duyên phận, cô bỏ đi tu.
Cô xuất gia ở một ngôi chùa cổ trên núi gần hai mươi năm. Những con chim, những con thú rừng hầu như quen thuộc bóng dáng của người sư nữ. Hai mươi năm qua, cô vẫn chưa đắc đạo. Cô thắc mắc, vì tự cho mình thông kinh kệ hơn người và chịu đủ mọi sự khổ hạnh của nhà chùa. Một ngày kia, cô quyết định sang Tây Trúc một phen để tìm cho ra lẽ. Đường sang Tây Trúc thiên nguy vạn hiểm, nhưng cô quyết đi cho bằng được.
Một hôm, sau khi qua khỏi một trái núi, sư nữ tìm vào một ngôi nhà hẻo lánh dọc đường để nghỉ chân. Hai mẹ con chủ nhân tuy người rừng núi quê mùa nhưng vốn là kẻ ăn chay niệm Phật, nên thấy khách là nhà tu hành thì tiếp đãi rất hậu. Khi họ được nghe kể công trình tu luyện của sư nữ thì họ càng cung kính, coi như bậc thầy. Và khi họ biết rõ ý định của sư nữ thì họ cũng xin phép bỏ nhà bỏ cửa đi theo thầy để mong được đắc đạo. Nghe họ cầu khẩn, sư nữ cười:
-Hai mẹ con nhà này, cũng muốn thành Phật ư? Được, cứ đi theo ta!
Nhưng bụng nàng bảo dạ:-“ Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”.
Từ hôm đó nhà sư nữ có thêm hai người bạn đồng hành. Chân bớt mỏi, đường bớt dài, đi chẳng mấy chốc đã tới đất Thánh. Từ trước đến sau hai mẹ con nhà nọ vẫn cung kính, coi sư nữ như thầy. Còn sư nữ đối với họ không được như trước:-“ Không biết chừng họ được thành Phật trước ta. Họ sẽ hơn ta…Bọn này mà đắc đạo, thật là một điều nhục cho Thiền môn”.
Nói chuyện đức Phật, khi vừa nghe tin có người tìm đường đến Tây Trúc cầu đạo, vội hóa thân đi theo dõi. từ đầu đến cuối, đức Phật vẫn không bỏ sót một lời nói, cử chỉ nào cửa sư nữ. Khi họ sắp qua một con sông rộng, đức Phật hóa phép hiện ra ở bên kia bờ một tòa cổ tự, trước cửa có một cây Bồ-đề rất lớn, để chờ họ.
Muốn cho hai mẹ con khỏi lẽo đẽo theo mình đến đất Thánh, nên khi qua sông, sư nữ giả cách ngạc nhiên, chỉ ngôi chùa và cây Bồ đề bảo rằng:
-Kìa , chúng ta đã tới Tây Trúc. Chóng thật! Chính là cây Bồ-đề của đức Thế Tôn tu luyện ngày xưa. Thôi! Hai mẹ con cứ việc trèo lên một cành cao niệm kinh rồi buông tay rơi xuống là tự khắc thành Phật!
Tin tưởng ở lời nói của bậc thầy, hai mẹ con mừng rỡ làm theo không chút ngần ngại. Nhưng khi họ buông tay cho người rơi xuống thì đức Phật đã đón họ đưa lên trời. Có bốn vị La Hán mang tòa sen đến rước đi. Tay hai mẹ con vẫy vẫy như có ý gọi người bạn đồng hành.
-“ Đúng là họ thành Phật rồi!”. Sư nữ vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, vội trèo lên cây để làm như họ và để mong được như họ. Nhưng đức Phật đã có ý trừng phạt người đàn bà kiêu ngạo và độc ác ấy một cách đích đáng, nên đã để cho cái xác rơi phịch xuống đất, tan xương vỡ sọ. Và sau đó đức Phật lại bắt người khốn nạn ấy hóa thành bình vôi. Tại sao lại hóa thành bình vôi? Có người bảo chính là đức Phật muốn bắt những kẻ trong lòng bất nhân, nhưng lại đeo bộ dạng từ bi, phải để cho người đời luôn luôn móc ruột.[32]
Khảo dị
Một truyện khác có nhiều tính chất Phật thoại cũng nói về sự tích Ông Bình vôi:
Có một anh ăn trộm, từng sống bao nhiêu năm với nghề. Hắn ta không vợ con, gia sản, chỉ độc có một chiếc lều bên cạnh đường cái. Một hôm, có cặp vợ chồng người ăn mày qua đó xin trú chân. Hắn cho ở lại và sau đó hắn thấy chồng bảo vợ:
-Hôm nay không xin được tí gì cả. Gần đây có một nương khoai, chờ đến tối tôi sẽ đào trộm về ăn.
Vợ can chồng:
-Thôi đi ông! Chỉ vì kiếp trước chúng ta ăn ở thất đức nên mới như thế này. Có lý nào phạm thêm vào cho nặng tội kiếp sau. Tôi thà chết, không ăn trộm!
Người ăn trộm nghe chuyện, bỗng dưng hối hận. Cuối cùng hắn giao tất cả cho hai vợ chồng người ăn mày rồi bỏ đi. Hắn tìm đến một ngôi chùa trên núi cao, xin Hòa thượng cho cạo đầu tu hành.Người ta giao cho hắn công việc nấu ăn: một bữa phải nấu từ tinh sương và một bữa từ chiều. Phận sự của hắn là giữ lửa, không được để tắt, vì một lần tắt lửa thì lại phải xuống núi xin về, cách xa hàng bao nhiêu dặm.
Từ lúc nhận việc nhà chùa, hắn tỏ ra chu đáo lạ thường, chưa có bữa nào để lửa tắt. Một sư bác trên chùa ghét chú tiểu mới, bèn chờ một hôm tiểu ta ngủ say, tưới tắt lửa nhóm ở bếp.
Gần sáng, chú tiểu dậy thấy không còn lửa, nghĩ đến phận sự, vội vã ba chân bốn cẳng vượt mấy khi rừng tìm xuống làng xin lửa. Giữa đường hắn gặp một con cọp già đòi ăn thịt.
-Tôi vui lòng để ngài xơi thịt-hắn nói- nhưng hãy cho tôi chạy xuống làng xin lửa cho nhà chùa rồi tôi sẽ tới nộp mạng.
Cọp bằng lòng để cho đi. Khi đưa được lửa về, hắn kể sự tình và xin phép Hòa thượng cho đi nộp mình cho cọp. Đến nơi, cọp bảo:
-Tao già rồi, răng đã rụng hết mà xương mày cứng khó nhai. Vậy mày hãy trèo lên cây kia buông mình rơi xuống cho gãy xương, tao mới ăn được.
Hắn vâng lời cọp, nhưng khi buông tay thì đức Phật đã đón sẵn rước lên trời, độ cho thành Phật, tức là Phật Nhiên Đăng.
Vị sư bác kia thấy chú tiểu chỉ bằng vài hành động đơn giản mà được thành chánh quả thì cũng muốn như thế. Hắn bèn xin phép Hòa thượng cho mình ra đương việc nấu ăn và giữ lửa. Thế rồi một hôm, hắn cũng giả tảng để cho lửa tắt, rồi cũng chạy xuống núi xin lửa. Và hắn cũng gặp cọp, cũng khất cọp xin đưa lửa về cho nhà chùa dùng rồi sau đó sẽ xin nộp mình. Nhưng đức Phật vốn hiểu rõ những việc làm của hắn xuất phát từ tấm lòng không thành thực, nên khi hắn trèo lên cây và buông tay thì Phật lập tức bắt hắn hóa thành bình vôi.[33]
Một dị bản của truyện trên cũng là một Phật thoại. là Sự tích cái ống nhổ. Ở đây cũng có hai nhân vật chính là chú tiểu và sư bác. Chú tiểu mới đi tu nhưng rất chăm chỉ và có tinh thần trách nhiệm. Thấy lửa ở đống nhấm tắt( kỳ thực là do sư bác vì ghen tỵ phun nước cho tắt), tiểu không nề hiểm nguy, chạy xuống núi vào lúc mờ sáng để có lửa về kịp nấu ăn cho nhà chùa. Phật hiện ra với trạng mạo một ông già khuyên can chú tiểu đừng đi, nhưng thấy chú cương quyết đi, bèn bảo chú trèo lên cây buông tay xuống, sẽ có kẻ đưa đi an toàn. Quả nhiên chú tiểu buông tay rơi xuống đúng trên lưng một con muông, nó đưa chú xuống làng rồi sau khi xin được lửa, lại đưa về vô sự.
Sư bác vốn không phải là chân tu, nhưng thấy chú tiểu gặp Phật, cũng muốn được như vậy, bèn cũng xin làm nhiệm vụ nấu ăn và giữ lửa. Sau đó hắn đã để tắt lửa và quả nhiên cũng được gặp Phật. Nhưng khi buông tay thì Phật bắt hắn hóa thành cái ống nhổ, miệng luôn luôn há ra cho người ta khạc nhổ vào để tỏ lòng khinh bỉ.[34]

18.SỰ TÍCH CÂY NÊU NGÀY TẾT

Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất của Quỷ, Quỷ đối với Người ngày càng quá tay. Chúng nó dần dân tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi nhích lên một ít. Cuối cùng chúng nó bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt cho chúng nó nghĩ ra là “ăn ngọn cho gốc”. Người không chịu. Chúng nó lấy áp lực, bắt Người phải theo. Vì thế, năm ấy sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ ra những rạ là rạ. Cảnh tượng xương bọc da thê thảm diễn ra khắp mọi nơi. Bên cạnh bọn Quỷ reo cười đắc ý. Người cơ hồ muốn chết rũ.
Phật từ phương Tây lại, có ý định giúp Người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ. Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa mà cào đất thành luống trồng khoai lang. Người cứ y lời làm đúng như Phật dặn. Quỷ không ngờ Người bắt đầu có mưu kế mới chống lại mình nên cứ nêu đúng thể lệ như mùa trước “Ăn ngọn cho gốc”.
Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực, nhìn thấy những gánh khoai núc nỉu chạy về nhà Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là những thứ không nhá nổi. Nhưng ác nỗi, thể lệ đã quy định, chúng nó đành cứng họng không thể chối cãi vào đâu được.
Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ, Quỷ thay thể lệ mới là “ăn gốc cho ngọn”. Phật bảo Người chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo Người về nhà, còn rạ phó mặc cho bọn Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng nó tuyên bố “ăn cả gốc lẫn ngọn”.Lần này Quỷ nghĩ:-“ Cho chúng mày muốn trồng gì thì trồng, đằng nào cũng không lọt khỏi tay chúng tao”. Nhưng Phật đã bàn với Người thay đổi giống mới. Phật trao cho Người hạt giống cây ngô để gieo khắp nơi mọi chỗ.
Năm ấy, lại một lần nữa Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết thì từng gánh ngô đã tiến về chứa từng cót đầy ăm ắp. Về phần Quỷ, lại bị một vố cay chua, tức uất hàng mấy ngày liền. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất, không cho làm rẽ nữa. Trong bụng chúng nó nghĩ:-“Thà không được cái gì còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình”.
Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo Cà-sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre trên có mắc chiếc áo Cà-sa, hễ bóng che bao nhiêu diện tích ở mặt đất là sở hữu của Người ở đó. Ban đầu Quỷ không thuận,nhưng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu thì ít mà giá rất hời, bèn nhận lời: “Ồ! Bằng một chiếc áo Cà-sa có bao nhiêu”. Chúng nó nghĩ thế. Hai bên làm tờ giao ước: ngoài bóng che là đất của Quỷ, trong bóng che là của Người.
Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn , tung áo Cà-sa bay tỏa ra thành một miếng vải tròn.Rồi Phật hóa phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. tự nhiên trời đất trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế, mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi, lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa phải chạy ra biển Đông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Đông.
Tiếc vì đất đai, hoa màu đều thuộc về tay Người, quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gay go vì quân đội của Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi, ngựa, chó ngao, bạch xà, hắc hổ,v.v… rất hung dữ. Phật cầm gậy tầm xích đánh giúp Người, làm cho quân của Quỷ không tiến lên được.
Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi đò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là sợ hoa quả,oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Đồi lại Phật cũng dò hỏi và biết quân của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ:máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột.
Lần giáo chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vẩy khắp mọi nơi. Quân của Quỷ thấy máu chó sợ hoảng hồn bỏ chạy.
Lần thứ hai, quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. phật bảo người nhặt là lương ăn rồi giã tỏi phun vào quân địch.Quân của Quỷ không chịu được mùi tỏi nên cũng cắm đầu chạy biệt tích.
Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người tha hồ ăn và theo lời Phật, dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại bị Phật bắt đày ra biển Đông. Ngày Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng rập đầu sát đất, cố xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước. Phật thấy chúng khóc váng cả lên mới thương hại, hứa cho.
Vì thế hằng năm, cứ đến ngày Tết Nguyên đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục cũ, trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ Người đang ở. Trên nêu có khánh đất, mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn luôn nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ.Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ[35].
Cành đa, lá dứa treo kiêu(cao),
Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà.
Quỷ vào thì quỷ lại ra,
Cành đa, lá dứa thì ta cứa mồm.
Ngày xưa người ta còn tin rằng những lúc cần đuổi Quỷ như khi có dịch tễ chẳng hạn, thì treo một nắm lá dứa ở trước ngõ hay vẩy máu chó khắp mọi nơi cho Quỷ khỏi quấy. Đàn bà thường buộc tỏi vào giải yếm là cũng có mục đích gần như vậy.
Khảo dị 1:
Về sự tích Cây Nêu ngày tết, Việt Nam còn có một truyện khác cũng kể việc đánh nhau giữa Phật và Quỷ, nhưng có nhiều chi tiết khác với truyện kể trên kia. Tuy trong đó có mượn những tên Tấn, Ngụy, Hàn,v.v…nhưng cốt truyện vẫn không có vẻ là của nước ngoài:
Xưa có một ông vua nước Tấn hiếm hoi. Ao ước có một mụn con, vua bèn lập đàn khấn trời cầu tự. Lòng thành của vua cảm động đến Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng hỏi các thiên thần xem ai muốn đầu thai làm con vua Tần, nhưng các thiên thần đều từ chối. Sau cùng Ngọc Hoàng bắt con gái mình là công chúa Lý Hoa giáng sinh làm con vua Tần trong một hạn là 40 năm.
Từ đó hoàng hậu vua Tấn có mang sinh được một người con gái.Vua rất yêu quý đặt tên là Ngọc Chân. Khi công chúa đã đến tuổi lấy chồng, có nhiều con vua các nước láng giềng đến hỏi làm vợ.Vua Tấn không biết gả cho ai, bèn yết bảng ở trước cửa thành rằng: “ Ai có voi chín ngà,gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, ngao chín mắt và chín mâm ngọc quý đem đến thì sẽ gả công chúa”.
Buổi ấy, ở trên tầng mây thứ ba có chúa quỷ cầm đầu một nước dân Quỷ. Ngày 24 thánh chạp là ngày Quỷ xuống hạ giới chơi. Lần ấy, khi Chúa Quỷ đi qua nước Tấn, thấy bảng yết thế bèn hóa phép chỉ trong một chốc có đủ mọi thứ lễ vật, rồi tự xưng là con vua nước Ngụy đến hỏi công chúa Ngọc Chân.
Vua Tấn y ước gả con. Chúa Quỷ ở gửi rể được ba tháng, xin vua đưa vợ về nước. Vua Tấn phái quan quân 500 người hộ tống hai vợ chồng. Khi đến cửa ải, Chúa Quỷ hóa phép làm cho trời tối tăm mù mịt, bão táp nổi lên đùng đùng, quân gia tán lạc, mỗi người một ngã. Thừa dịp đó Chúa quỷ đưa Công chúa cưỡi voi chín ngà đi biệt. Sau khi bão tạnh, quan quân tìm mãi không thấy hai vợ chồng Công chúa, đành trở về triều.
Lại nói chuyện giữa lúc Chúa quỷ nổi gió bão thì chính là lúc Phật Bà Quan Âm đi qua vùng đó.Bà thấy Công chúa mắc nạn, Phật Bà hóa thân xuống làm một bà lão bán hàng đón đường Chúa quỷ để cứu Công chúa. Chúa Quỷ đưa Công chúa đi một quãng xa, thấy đói bụng, bèn nghỉ lại rồi bắt voi rút ruột ra ăn. Công chúa trông thấy rất sợ hãi. Ăn xong, Chúa quỷ đưa Công chúa đi qua mấy khoảng rừng rậm rạp đầy gai góc. Trông thấy một cái quán bán hàng, Chúa Quỷ bèn gửi Công chúa cho bà lão để mình về trước đem quan ra đón vợ. Bà lão bán hàng, tức là Phật Bà Quan Âm, sau khi hỏi Công chúa, biết rõ sự tình bèn trao cho nàng một cái áo khoác và chỉ cho lối về.
Khi Chúa quỷ đưa quân đến nơi thấy mất vợ, nổi giận sai quân bắt bà lão. Nhưng Phật Bà đã sai Kim Cương La Hán phục sẵn mọi nơi, xông ra đánh Quỷ. Hai bên đánh nhau mấy ngày đêm chưa phân thắng bại. Quỷ hỏi Phật sợ gì?-Phật bảo sợ oản chuối. Phật hỏi lại Quỷ sợ gì thì Quỷ đáp là sợ cung tên. Quỷ lấy oản chuối ném quân Phật.Các vị Kim Cương La Hán nhặt lấy làm lương ăn. Trong khi đó Phật làm cung tên bắn vào Quỷ, Quỷ thua. Phật bắt bỏ được bỏ vào túi. Thấy Chúa quỷ van lạy xin tha, Phật đày cả bọn ra biển rồi cắm cây nêu bắt chúng phải ở phía Đông, không được tự tiện vào đất của Phật.
Công chúa Ngọc Chân thoát khỏi tay Quỷ cứ theo đường Phật chỉ, chạy mãi không kể bụi bờ, gai góc chi cả. Qua mấy khoảng rừng rầm đến bờ sông lớn,Công chúa mệt quá bèn trèo lên một hòn đá lớn ngủ thiếp đi. Tình cờ hôm ấy vua Thủy có việc đi qua đó, thấy một người con gái rất đẹp đang ngủ mê mệt, hai bàn chân đầy gai cắm vào, máu chảy ròng ròng, vua bèn tiến lại nhổ gai cho nàng. Đến cái gai cuối cùng cắm sâu quá, nhổ đau, làm cho Công chúa thức dậy.Thốt nhiên Công chúa có cảm tình với người trai lạ, bèn kể mọi chuyện vừa qua cho nghe.Vua Thủy đưa Công chúa về Thủy cung làm vợ, yêu chiều rất mực.Cũng vì thế những người vợ khác của vua Thủy nổi ghen.Họ lừa khi chồng lên chầu Ngọc Hoàng vắng, đẩy Công chúa xuống một cái vực sâu thẳm đầy thuồng luồng. Nhưng họ không ngờ Công chúa được quân hầu thân tín của vua Thủy cứu thoát.Khi vua Thủy về, Công chúa khóc lóc xin trở về trần.Vua Thủy đành để nàng lên đất, lại cho nàng một cành hoa, dặn hễ lúc nào có việc cần cứ đem cành hoa ra gọi, vua sẽ đến giúp đỡ.
Khi Công chúa Ngọc Chân lên trần thì lên ngay vào giữa địa phận nước Hàn. Người ta đưa nàng về triều.Vua nước Hàn say mê sắc đẹp của nàng bèn lấy làm vợ, yêu mến hơn tất cả các vợ khác.Các cung tần nhà vua thấy thế làm ghen tức,bèn xin vua mở một cuộc thi khâu vá và nấu ăn giữa các vợ vua, ai vụng sẽ phải đày ra lãnh cung. Công chúa không quen việc khâu vá, nấu ăn, đành ngồi bó tay, Nhưng bỗng nàng nhớ đến cành hoa, bèn cầu vua Thủy.
Vua Thủy đến hỏi chuyện đầu đuôi rồi sai bộ hạ giúp nàng.Vua còn hóa phép làm một trận bão lớn, bụi bay mịt mù vào bàn cỗ của các cung tần khác của vua Hàn.Vì thế khi chấm thi, Công chúa được giải nhất,còn các cung tần khác đều bị đày ra lãnh cung. Nhưng Công chúa xin chồng tha cho tất cả. Bọn họ cảm cái ơn của nàng, ai nấy xin vua tôn làm chính cung Hoàng hậu.
Công chúa về sau sinh được hai con trai. Nàng để một con nối ngôi Hàn và một con về nối ngôi Tấn.
Người ta nói ngày 24 tháng chạp là ngày Quỷ hay vào đất liền, nên trồng nêu vào ngày đó[36].
Khảo dị 2:
Ngày Tết Nguyên đán , ở nông thôn, trước đây, nhà nào cũng có cây nêu trước cổng để trừ tà ma, quỷ quái. Cây nêu làm bằng tre trên đỉnh có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa, thêm một hình cung tên, hướng mũi nhọn về phía đông.
Cành đa, lá dứa treo cao,
Vôi bột rắc ngô, chớ trêu mọi nhà.
Quỷ vào thì quỷ lại ra,
Cành đa, lá dứa thì ta cứa mồm.
(Ca dao)
Ngày xưa,Quỷ sống chung với Người. Quỷ lấn đất của Người, chúng bắt Người làm thuê và đòi chia hoa lợi.
Năm ấy, lúa nẩy hạt, Quỷ đòi ăn ngọn, trả Người gốc. Người bị cướp hết thóc, chết đói như rạ. Phật thương giúp Người chống lại Quỷ. Phật bảo Người trồng khoai lang. Đến mùa, theo luật “ăn ngọn , cho gốc”. Quỷ bị lấy toàn lá khoai, ức lắm nhưng không làm gì được.Năm sau, Quỷ đòi “ăn gốc, cho ngọn”. Năm đó, Người trồng lúa. Người thu hết lúa. Quỷ còn rạ, Quỷ tức sôi lên,mùa tới đòi ăn “ cả gốc lẫn ngọn”. Phật bèn cho Người hạt ngô để trồng. Hoa lợi lại về tay Người. Quỷ uất, đòi lại tất cả ruộng đất, không cho Người làm thuê nữa.
Phật bảo Người tậu của Quỷ một miếng đất rộng bằng chiếc áo cà sa. Người trồng một cây tre, trên mắc áo cà sa, phần đất rợp bóng đến đâu thì Người sẽ lấy đất đến đó. Quỷ nhận lời.
Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn tung áo cà sa bay tỏa thành một miếng vải tròn, Phật hóa phép, cây cao vút lên. Bóng rợp của áo cà sa lấn dần vào đất Quỷ. Quỷ dắt nhau lùi ra tận biển Đông.
Bị Người đuỗi ra biển, Quỷ tiếc đất đai, của cải nên chúng chiêu hồi ma quỷ tìm cách cướp lại đất. Phật cầm gậy xích tầm giúp Người diệt đội quân ma quỷ.
Dùng vũ lực không thắng nổi Người, quỷ giở trò đấu trí. Quỷ tưởng Phật sợ hoa quả, oản chuối, xôi, cơm nắm, trứng luộc. Quỷ ném xôi, oản chuối, cơm nắm, trứng vào Phật. Người thu lấy làm lương ăn. Người dùng tỏi, lá dứa, máu chó, vôi bột, ném tung tóe vào Quỷ. Lũ Quỷ gian tham chạy tán loạn. Cuối cùng Quỷ phải vái lạy Phật, xin hằng năm được phép về đất liền thăm phần mộ tổ tiên. Vì thế, ngày Tết Nguyên đán, Quỷ thường kéo nhau về. Người trồng cây Nêu đuổi Quỷ.
Chuyện Cây nêu ngày Tết nhắc nhở mọi người sống với nhau công bằng. Người lao động phải được hưởng thành quả lao động. Những kẻ gian tham, bóc lột tước đoạt công sức lao động của người khác sẽ bị loại ra khỏi cộng đồng. Đó là ước mơ của nhân loại.
(Mai Thục, Đỗ Đức Hiểu: Điển tích Văn học,NXBGD,1996).

19.SỰ TÍCH HỒ BA BỂ

Vào hồi đó, ở xã Nam Mẫu có mở một hội “ vô già” cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem. Ai nấy đều lo ăn chay niệm Phật và làm những việc từ thiện như: buông cá, thả chim,v.v…để cầu phúc trong mấy ngày hội.
Hôm ấy, xuất hiện ở đám hội một bà già ăn mày.Người ta không biết mụ ta từ đâu lại. Bộ dạng thật là gớm ghiếc; những mảnh vải vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét. Mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Đến đâu, mụ cũng thều thào mấy câu: -“Đói lắm các ông các bà ơi!” Rồi cầm cái rá, mụ giơ ra khắp bốn phía, đầy vẻ cầu khẩn.
Nhưng mãi đến chiều, người đàn bà đó vẫn chả được tí gì. Đến đâu mụ cũng bị xua đuổi. Đám trẻ tuổi, nhất là các cô gái cho mụ là hủi, nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là xô nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng những tiếng “ Nam Mô Phật” lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào người. Cuối cùng bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan trước những trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội.
Sau khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy thất thểu tiến vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà nào, mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi. Mấy nhà giàu có đóng chặt cửa lại và thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp mẹ con bà góa vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn mày tội nghiệp,người mẹ đưa về nhà mình, lấy cơm nguội cho ăn.
Khuya hôm đó, hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà ấy lại gọi cửa. Mụ xin ngủ nhờ một đêm vì mọi chỗ người ta đều cấm cửa không cho vào. Hai mẹ con vui lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở một cái chõng cho mụ ngả lưng. Còn mẹ con thì nằm tạm ở một chỗ khác.
Người đàn bà vừa nằm là ngủ liền, tiếng mụ ngáy như sấm. Hai mẹ con nhìn ra thấy cái chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải là một mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con giao long đang cuộn mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất.Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở của mình cách biệt với xóm, không biết kêu cứu ai, đành trùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi.
Nhưng đến sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra thì chả thấy giao long dâu cả.Trên chõng, mụ ăn mày già đã dậy và sắp sửa ra đi.Trước khi từ biệt mụ nói:
-Chúng nó thờ Phật mà kỳ thực là buôn Phật. Chúng nó xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có hai mẹ con nhà ngươi là tốt bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc ngay xung quanh chỗ ở và nội trong đêm nay chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh.
Người mẹ băn khoăn hỏi thêm:
-Nhưng làm thế nào để cứu mọi người?
Người đàn bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo một hạt thóc cắn tách đôi vỏ trấu đưa cho hai mẹ con và nói:
-Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp cho hai mẹ con làm việc thiện.
Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy người đàn bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe chỉ mĩm cười, cho là một chuyện bâng quơ.
Quả nhiên tối hôm đó, giữa đám hội náo nhiệt lúc thiện nam tín nữa đang tấp nập lễ bái thì bất ngờ có một dòng nước từ dưới đất phun lên ngay chính giữa đàn tràng. Nước càng phun càng mạnh làm lở dần đất ở xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào, tưởng là phép Phật hiển hiện nên lại càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một mạnh nuốt hết người và vật. Chỉ mong nháy mắt đã ngập bằng một cái ao. Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái, đua nhau chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa. Ở dưới chân họ, đất nứt nẻ, rung động, hất họ ngã xuống. Bỗng chốc, một tiếng ầm dữ dội phát ra, đất đá, nhà cửa, người vật đều chìm nghỉm, nước tung tóe mù trời. Một con giao long to lớn từ mặt nước hiện ra bay vòng quanh xã Nam Mẫu.Trong khi đó thì nền nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện kia mỗi lúc được nâng cao hơn mực nước.
Đau xót trước cảnh nước lụt, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ biến ngay thành hai chiếc thuyền.Thế rồi, mặc gió, mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi,cố sức vớt những người bị nạn.
Chổ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba Bể ở Bắc Cạn, còn cái nền nhà ấy, tức là một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ mà người địa phương thường gọi là Pò-già-mải.[37]

20.SỰ TÍCH ĐẦM NHẤT DẠ hay BÃI TỰ NHIÊN

Vua Hùng Vương thứ ba có một nàng công chúa rất xinh đẹp. Người ta nói thuở mới lọt lòng, nàng được các bà tiên tô điểm, nên về sau mới có nhan sắc như thế. Vì vậy vua đặt tên là Tiên Dung. Vua Hùng là người hay nuông con. Đối với Tiên Dung vua lại càng yêu chìu, muốn gì được nấy.
Nhưng công chúa Tiên Dung chỉ có mỗi một sở thích là đi chơi mọi nơi trong nước. Vua phải sắm cho nàng một chiếc thuyền rất xinh, có đủ mọi người hầu hạ và mọi thức cần dùng. Mỗi năm vào khoảng cuối mùa xuân, chiếc thuyền công chúa bắt đầu xuất phát. Cho đến lúc những con chim hậu điểu bay từng đàn ở phương Bắc sang thì công chúa mới trở về cung cấm.Cũng có lúc công chúa quá vui quên cả về, làm cho vua lo lắng. Năm nàng mười tám tuổi, từng có một vài hoàng tử ở các nước láng giềng ngỏ ý muốn được kết duyên nhưng công chúa nhất thiết từ chối. Nàng nói với vua Hùng trong một bữa tiệc:
-Cha à! Con sẽ không lấy chồng đâu!
Lúc bấy giờ làng Chử xá, có người đánh cá tên là Chử Cù Vân, sinh được một người con trai tên là Chử Đồng Tử. Hai cha con tính vốn hiền lành, nhà nghèo nhưng họ sống rất vui vẻ trong túp lều dựng trên bãi cát.
Không may một hôm trong khi cha con đi câu vắng, ở nhà lửa bén cháy sạch chả còn tỳ gì. Hai cha con chỉ còn có một bộ đồ nghề và mỗi một cái khố vải đang mặc.Chiếc khố độc nhất ấy dùng để làm vật che thân cho hai mỗi lần ra ngoài, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc.
Cha con họ Chử hết hạn này lại tiếp nạn khác. Chử Cù Vân tuổi già thiếu áo không chịu được lạnh, dần dần sinh bệnh. Bệnh của ông mỗi ngày một nặng. Trước còn gắng gượng đi câu được, nhưng sau nằm liệt ở nhà. Một hôm biết mình sắp chết, ông gọi con lại dặn dò mọi việc.Qua hơi thở phều phào, ông trối:
-Có mỗi một chiếc khố…con giữ lấy mà mặc…cứ chôn trần là được rồi!
Nhưng Chử Đồng Tử rất thương cha, không muốn để người chết lạnh lẽo,-“Rồi ta sẽ cố kiếm nhiều cá để đổi lấy một cái khố khác!”.Nghĩ thế, anh quyết định dùng chiếc khố độc nhất đó cuốn cha lại từ đầu đến chân. Rồi chờ đến nửa đêm, anh đưa lên cồn cao vùi lại.
Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, nên phải làm việc ban đêm. Cứ đến chiều hôm, khi không còn trông rõ mặt người nữa, anh bắt đầu ra bãi câu cá. Cho đến mờ sáng, anh sẽ lội ngập nửa người, lần mò đến bến đổi cá cho những thuyền buôn lấy gạo.Thế rồi lại lội đến bến vắng người, lẻn về lều của mình nấu ăn và ngủ một giấc đến chiều mới dậy. Rồi lại ăn uống và chuẩn bị đi câu nữa. Đồng Tử đã sống một cuộc đời cô đơn lẩn lút như thế đã hơn hai năm. Có lúc anh câu được nhiều cá, lúc ít cá không chừng. Cũng có lúc không câu được gì cả đành phải men theo các thuyền xin ăn. Nhưng chả có lúc nào câu được một số cá đủ để đổi lấy một cái khố cả. Vì thế anh vẫn phải chịu trần truồng mãi. Một hôm, Đồng Tử đang mang cá đổi gạo thì chợt có tiếng huyên náo. Mọi người kháo nhau có thuyền của công chúa sắp tới địa phương.Từ đàng xa, chiếc thuyền sơn hiện ra mỗi lúc một lớn,có quân gia cờ quạt, chiêng trống đàn sáo vang động cả một khúc sông. Thấy mọi người đổ ra đường, ra bến đi xem rất đông, Chử Đồng Tử bí lối không về lều được. Anh đành rúc vào một bụi lau ở bãi rồi bỗng nghĩ ra được một kế giấu mình kín hơn là bới cát thành một cái huyệt rồi nằm xuống, tự vùi mình lại.
Giữa lúc đó, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó, nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín chỗ lau sậy để tắm. Không ngờ chỗ mà bọn thị tỳ quây màn lại chính là chỗ Đồng Tử vùi mình dưới đó. Anh nằm dưới đất chả biết gì hết, chỉ nghe tiếng chân người giẫm thình thịch và tiếng nước dội rào rào.Tiên Dung vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm, cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra. Biết là bại lộ, Đồng Tử ngượng ngùng ngồi nhỏm dậy. Công chúa xiết bao kinh ngạc, khi thấy có một người lạ cũng trần truồng như nàng ở trong màn. Thoạt đầu Tiên Dung tưởng là ma quái, toan la lên để bọn quân hầu vào cứu, nhưng thấy người con trai đó chẳng có chút gì là độc ác, nên nàng cố trấn tĩnh, ôn tồn bảo:
-Người là ai? Tại sao lại vùi mình ở đây? Nói mau!
Nghe người trai lạ kể nông nỗi của mình, công chúa rơm rớm nước mắt. Nàng không ngờ trong đất đai của cha nàng trị vì lại có hạng người đói khổ đến nỗi không có lấy một mẫu vải che thân.
Cảm lòng chí hiều của người con trai ngồi trước mặt, Tiên Dung nói một mình:-“Ta đây không thích lấy chồng, nay lại gặp người này trong huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng?” Bỗng chốc nàng đưa gáo cho Đồng Tử:
-Thôi người hãy dậy mà tắm rửa đi!
Bọn thị tỳ và lính tráng hôm đó rất lấy làm sững sốt vì thấy từ trong màn bước về thuyền không phải một mình công chúa mà là hai người và người thứ hai lại là một chàng trai khỏe đẹp. Rồi nàng ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống, hoan lạc. Bấy giờ trước mặt mọi người, công chúa thẳng thắn kể cuộc gặp gỡ kỳ dị lúc nãy rồi nói:
-Người này sẽ là chồng tôi!
Nghe thế Chử Đồng Tử đỏ mặt:
-Tôi không dám, không dám.
Tiên Dung bảo:
-Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà phải từ chối.
Tất cả đều theo ý Tiên Dung. Duy chỉ có hai viên quan hầu và một số thị tỳ, lính tráng không cho là cuộc phối hợp tốt đẹp. Nhưng thấy công chúa táo bạo lại thường được vua chìu chuộng cho nên cuối cùng họ cũng không dám cản. Và rồi hôn lễ cử hành ngay trên sông, có một số đông bô lão địa phương tới dự.
Nhưng khi tin bắn về cung, vua Hùng không ngăn được cơn giận dữ. Vua giận bảo quần thần rằng:
-Thà nó không có chồng còn hơn. Thực là đốn mạt! Tại sao nó không chịu hỏi ta? Thôi từ nay nhất thiết cấm cửa. Hễ nó vác mặt về Phong Châu thì cho phép Lạc tướng chém chết trước tâu sau.
Tiên Dung nghe tin, sợ không dám trở về, mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu dịch. Dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn,(nay là chợ Hà Loa), thương nhân ngoại quốc qua lại buôn bán. Có một nhà đại thương đến nói với Tiên Dung rằng:
-Quí nhân xuất ra một thỏi vàng, năm nay cùng với người nhà buôn ra biển mà mua vật quí, sang năm sẽ lời được một thỏi.
Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:
-Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho. Bây giờ nên lấy một thỏi vàng cùng với nhà buôn ra ngoài biển mà mua hàng làm kế sinh nhai.
Đồng Tử bèn cùng đi với người nhà buôn, Họ dong buồm đi về phương Nam. Giữa biển có một ngọn núi tên là Quỳnh Viên, trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đây mà múc nước ngọt.
Đồng Tử lên chơi trên am, có một đạo sĩ tên là Phật Quang đang ngồi định thần trên một phiến đá. Anh bước tới toan cất tiếng thì người kia đã hỏi trước:
-Thằng bé Chử! Sao lại muộn thế?
Biết là bậc thần dị, anh phủ phục xuống bên cạnh người lạ, xin làm đồ đệ. Đạo sĩ truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử mới lưu lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho người đi buôn mua hàng, hẹn lúc nào về thì ghé lại am chở Đồng Tử về. Đạo sĩ mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:
-Linh thông tại đây đó.
Đồng Tử trở về đem chuyện kể lại cho Tiên Dung nghe và truyền đạo Phật lại cho vợ, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, ghe buôn đem nhau đi tìm thầy học đạo.
Một hôm trời đã tối mà chưa tới nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy, úp nón lên trên để che sương. Đêm đến canh ba, bỗng có tiếng chuyển động dữ dội. Thế là phút chốc thấy hiện ra thành quách, lầu son, đền báu, đài cát, lăng miếu, kho tàng, miếu xã, vàng bạc châu báu, chiếu giường, mùng màn, tiên đồng, ngọc nữ, tướng sĩ, thị vệ la liệt, đầy ở trước mặt. Sáng ngày, ai trông thấy cũng lấy làm kinh dị, tranh nhau đem những ngọc thực đến dâng hiến và xưng thần.Văn võ bá quan, phán quan tục vệ, biệt lập thành một nước.
Hùng Vương hay tin, cho là con gái của mình làm loạn, tự nhiên lòng giân lại bốc lên bừng bừng, mới phát binh đi đánh. Quan quân đến rồi, quân đội của Lạc tướng đã hạ trại án ngữ ở bên kia bờ sông.Tiên Dung cười bảo:
-Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun rủi.Sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điêu chính, chờ lệnh chém giết.
Lúc bấy giờ, những người mới tập họp, sợ hãi mà chạy tán loạn, chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên Dung. Quan quân kéo đến đóng doanh ở bải Tự Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn, ngày sắp tối nên chưa kịp định binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng, đổ cây, quan quân đại loạn bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời, đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn, đầy nước trắng xóa. Duy chỉ có cái nền cung của hai vợ chồng công chúa thì vẫn còn. Người ta gọi cái đầm ấy là đầm Một Đêm ( Nhất Dạ) và cái nền ấy là bãi Tự Nhiên.Về sau trên cái nền ấy,người ta có lập miếu thờ hai vợ chồng Chử Đồng Tử.[38]

21.HUYỀN THOẠI VỀ NGUYÊN PHI Ỷ LAN

Cho đến bây giờ người ta chưa biết ngày sinh của bà và lịch sử ghi lại ngày bà mất khoảng tháng 6 hoặc tháng 7 năm Đinh Dậu (1117).
Bà xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Thổ Lỗi ( sau đổi là Siêu Loại, nay là làng Sủi,xã Thuận Quang, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Tên thật của bà là gì cũng chưa ai nêu được rõ, chỉ biết bà là một người con gái xinh đẹp, chăm chỉ, chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm.
Tương truyền rằng lúc bấy giờ vua Lý Thánh Tông (1023-1072) đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi. Nhà vua và triều đình rất buồn phiền, thường đi cầu tự ở các đền chùa. Một hôm, nhà vua được các quan hộ giá đi cầu tự ở chùa Dâu ( Thuận Thành-Bắc Ninh). Nhân dân già trẻ, trai gái kéo nhau ra các làng ven đường xem rước vua.Riêng cô gái làng Sủi vẫn dửng dưng trước tiếng chiêng trống khua vang, cờ xí ngợp trời, nhân dân hò reo chúc tụng nhà vua. Cô gái vẫn không ngừng tay hái lá, ẩn hiện trong nương dâu. Tới khi xe vua tới gần, chị em bạn bỏ chạy ra đường xem trước, cô mới tạm ngừng tay đứng tựa gốc cây, mắt lơ đãng nhìn xa.
Thấy bóng cô thôn nữ một mình thấp thoáng trong ruộng dâu, nhà vua lấy làm lạ, sai người đòi cô đến trước xe hỏi chuyện. Cô bước tới trước xe vua, quỳ tâu:
-Thiếp là con nhà nghèo, phải làm việc đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng mẹ cha, không dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng.
Thấy cô gái xinh đẹp, ăn nói lễ phép, dịu dàng, nhà vua lại đang đi cầu tự nên rất ưng ý, bèn truyền đưa cô về cung, xây riêng cho cô một cung để ở, gọi cô là Ỷ Lan cung phi. Cái tên Ỷ Lan đặt ra là để ghi sự tích nhà vua gặp cô thôn nữ xinh đẹp đứng tựa gốc cây ngày nào bên quê Bắc Ninh. Và từ đấy người ta quen gọi là bà Ỷ Lan ( tương truyền rằng cung của cô được xây, sau này là chùa Kim Cổ, này là số nhà 73 phố Đường Thành, Hà Nội).
Ít lâu sau, Ỷ Lan sinh con trai (sau này là vua Lý Nhân Tông, một ông vua nổi tiếng thương dân), Lý Thánh Tông càng yêu quý Ỷ Lan gấp bội. Nàng được tôn làm Nguyên Phi Ỷ Lan(đứng đầu các phi, sau này được phong làm Hoàng hậu); con trai nàng được phong làm Thái Tử.
Điều nổi bật nhất ở con người này là tài kinh bang tế thế. Sử cũ chép rằng: Bà Nguyên Phi Ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến nhân tâm hòa hiệp, đất nước được thanh bình. Nhân dân tôn sùng, đạo Phật tôn bà là “Quan Âm nữ”.
Khi vua Lý Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành hay tràn sang bờ cõi nước ta để quấy phá, đánh lâu mà không thắng, nhà vua đem quân trở về. Đến Châu Cư Liên ( Tiên Lữ-Hưng Yên), vua hỏi thăm nhân dân về tình hình đất nước khi vua vắng mặt ở kinh thành, nhân dân đều hết lời ca ngợi tài trị nước của Ỷ Lan Nguyên Phi được tạm giao quyền nhiếp chính. Nhà vua thở dài:” Kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông lại tầm thường thế hay sao?” và nhà vua lại quay đi đánh giặc và lần này thắng to.
Trong hai lần chống quân Tống xâm lược( 1075-1077), vua Lý Nhân Tông còn bé, mới lên 10 tuổi, bà Nguyên Phi Ỷ Lan đã cùng triều đình bày mưu đánh giặc, tạo nên những kỳ tích trong cuộc chống Tống bảo vệ độc lập cho nước nhà. Lý Thường Kiệt điều binh khiển tướng xông pha trận mạc ngoài chiến trường, còn bà đã cùng Thái sư Lý Đạo Thành dốc sức lo việc triều chính, việc hậu phương.
Là người xuất thân từ nông dân nên bà rất hiểu đời sống của dân lành. Khi Lý Thánh Tông vừa băng hà, con bà lên ngôi còn bé, bà đã nhiếp chính việc triều đình thay con và đã làm được nhiều việc có lợi cho người nông dân ở nông thôn bấy giờ. Có nhiều phụ nữ vì nghèo mà phải bán mình, hoặc cha mẹ đem bán, đem thân thế nợ không thể lấy chồng được, bà Ỷ Lan đã lấy tiền cọc trong kho nhà nước chuộc cho những người ấy và đứng ra dựng vợ gả chồng cho họ.
Ỷ Lan rất chú trọng đến việc khuyến nông và hiểu rằng” Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Để phát triển nông nghiệp, bà đã nhiều lần nhắc nhở vua Lý Nhân Tông phạt tội nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu.Trước khi bà mất, tháng hai năm Đinh Dậu (1117), bà còn nhắc vua Lý Nhân Tông một lần nữa:
-Gần đây, người kinh thành và làng ấp có kẻ trốn đi chuyên nghề ăn trộm trâu. Nông dân cùng quẫn, mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây ta đã mach việc ấy và Nhà Nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại còn nhiều hơn trước.
Tuân lệnh mẹ, vua Lý Nhân Tông, năm Đinh Dậu (1117) đã xuống chiếu rằng: “ Những kẻ ăn trộm trâu làm thịt, xử tội 80 trượng, đồ làm lính, vợ cũng xử 80 trượng, đồ làm người đàn bà nhà tằm, cùng nhau phải đền cho người mất trâu,láng giềng không tố cáo cũng xử 80 trượng”. Đến tháng 4 năm Quý Mão, nhà vua lại có lệnh cấm giết trâu.Vua xuống chiếu rằng: “ Con trâu làm việc cày cấy rất trọng, có lợi cho người ta không ít, từ nay về sau cứ 3 nhà làm một “bảo” vô cớ không được giết trâu ăn thịt, nếu trái lệnh thì đưa ra hình hiến trị tội”.
Bà Nguyên Phi Ỷ Lan không những giỏi giang việc chính trị, chăm sóc kinh tế, làm cho đời sống nhân dân được thịnh vượng, còn là người chịu khó học hỏi, hiểu biết nhiều và rộng. Qua việc trao đổi với các vị Sưgià, học rộng bà đã trao đổi về nguồn gốc đạo Phật trên thế giới và nước ta. Câu chuyện được sách Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục đời Trần ghi lại và chính vì vậy đến nay còn biết gốc tích sự truyền bá đạo Phật và nước ta.
Bà đã xây dựng hơn 100 ngôi chùa tháp nổi tiếng, có quy mô to lớn bề thế với những dáng hình, cấu trúc phong phú, bền chặc, bố cục đăng đối, trang trí đẹp mắt…và chỉ có một số ít ỏi di tích đó còn lại đến nay như chùa Phật Tích Tiên Sơn-Bắc Ninh (1100), chùa Bà tấm hay còn gọi là Linh Nhân Từ Phúc, mang chính tên hiệu Ỷ Lan(1115).
Mùa thu, tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), bà qua đời. Thi hài bà được hỏa táng theo tục lệ nhà Phật.
Câu chuyện đến nay còn được nhân dân truyền tụng về “Bà Tấm xứ Bắc” là như thế đó. Sử sách thì còn cho rằng cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII, có thể gọi là “ Thời đại Ỷ Lan” của Thăng Long-Đại Việt, một thời đại,một vương triều đã biết” lấy dân làm gốc”.
(Toàn cảnh-Sự kiện Dư Luận-Cơ quan, Bộ VHTT,số 106-1999)

22.SỰ TÍCH SÔNG NHÀ BÈ hay TRUYỆN THỦ HUỒN

Ngày xưa ở Gia định có một người tên là Thủ Huồn.Hắn xuất thân làm thư lại. Trong hơn hai mươi năm luồn lọt trong các nha các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu người bị oan uổng; do đó hắn đã vơ vét được bao nhiêu là tiền của. Vợ hắn chết sớm lại không có con cho nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết. Ngoài số chôn cất, mỗi mùa thu hoạch kể hàng ngàn”giạ”lúa.’
Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà, sống một cuộc đời trưởng giả.
Một hôm, có người mách cho Thủ Huồn biết chợ Mạnh Ma ở Quảng yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn gặp người chết, người sống phải chờ đến mồng một tháng sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ bấy lâu.
Khi gặp vợ,Thủ Huồn không dám gỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được. Thủ Huồn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ kễ cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lúc âm dương cách biệt. Rồi hắn hỏi vợ:
-Mình lâu nay làm gì?
-Tôi làm vú nuôi trong cung vua, Cuộc đời tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ.
Hắn nói:
-Tôi nhớ mình quá. Tôi muốn theo mình xuống dưới ấy ít lâu có được không?
-Đi được.Nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm.
Thủ Huồn và vợ cùng đi.Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rung mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:
-Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung Hoàng hậu, chỗ tôi trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể lên buồng tôi trên kia được.Tôi sẽ kiếm cách cho chàng đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.
Chiều hôm đó, người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép và nói:
-Chỉ có cung vua và cung hoàng hậu thì đừng có vào, còn mọi nơi khác chàng cứ đi xem cho thỏa thích.
Hắn lượn mấy vòng xung quanh nhà bếp rồi tiện chân đến nhà ngục.Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la hét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn.Qua mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay,v.v…hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế.
Sau cái bàn xẻo thịt là cả một khi gông. Trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi người cai ngục:
-Thứ gông này để làm gì?
-Để chờ một thằng ác nghiệt ở trần xuống đây.Bao nhiêu cái gông trong này đều đã có chủ cả. Cứ xem to hay nhỏ thì biết tội ác của nó.
Thủ Huồn lại hỏi:
-Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai?
Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dày chỉ vào một hàng chữ, đọc: “ Hắn là Võ Thủ Hoằng[39]tức là Thủ Huồn”. Rồi nói tiếp:
-Thằng cha đó ở Đại Nam Quốc, Gia Định tỉnh Phúc Chính huyện…
Nghe nói thế, Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt, Nhưng hắn vẫn giữa được vẻ bình tĩnh. Hắn hỏi thêm:
-Thế nào? Hắn có tội gì?
Lão cai ngục mắt vẫn không rời quyển sách:
-Khi làm thư lại, hắn bẻ mặt ra trái, làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: năm Ất Sửu hắn sửa hai chữ “ngộ sát”thành “cố sát” làm cho hai mẹ con Thị Nhàn bị chết để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồn được mười nén vàng và mười nén bạc, một trăm quan tiền.Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình Ca bị hai mươi năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng .Năm…
Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên kia, dưới này đều rõ mồn một.Hắn ngắt lời đánh trống lãng:
-Thế vợ hắn có cùng đeo gông không hở ông?
-Ồ! Ai làm người ấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi.
Thủ Huồn lại hỏi gặng:
-Ví thử hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào?
Lão cai ngục bỏ sách xuống bàn đáp:
-Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp được bố thí và cúng lễ cho hết đi.
Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về , lại đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm Vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay, hắn bảo vợ:
-Tôi về trang trải công nợ có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống.Mình nhớ lên đón nghe!
Về tới Gia Định, Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền,lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết sư sãi các chùa gần vùng tới nhà mình cúng cơm, tốn kém kể tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường.Ai xin gì được nấy. Có những người trước chửi hắn bây giờ lại đâm ra thương hại hắn.Nhiều người bảo nhau:-“Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thế nào cũng chả làm gì nên tự làm cho vơi bớt”. Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì sốt, cứ việc quẳng của không tiếc tay.
Cư như thế sau ba năm, Thủ Huồn tính ra đã phá tan được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh Ma. Ở đây, hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cõi âm một lần nữa.
Khi trở lại nhà ngục, Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục ba năm về trước. Cách bố trí y hệt như xưa; cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, cắt tay,v.v..Duy chỗ để gông xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông mà Thủ Huồn chú ý nhất thì bây giờ đã rút ngắn lại, tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tí. Hắn lân là hỏi lão cai ngục:
-Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như tolắm thì phải.
-Đúng đấy!Lão đáp. Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi, nên nó đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng hơn nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia Định.Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng dàng.Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại , kể cả nhà cửa của mình.Hắn đến Biên Hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Hắn xuôi sông Đồng Nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó, ở ngã ba sông Đồng Nai và sông Gia Định việc đi lại rất bất tiện, cũng vì thế mà bên kia sông Đồng Nai người ta còn ngần ngại chưa dám di cư sang để sinh cơ lập nghiệp.
Thủ Huồn bèn quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn, trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình, kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền.Hắn làm công việc đó mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.
Sau đó khá lâu, có một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung Quốc lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”, nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Huồn là ai? Sau khi sứ giả cho biết rõ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung Quốc có cúng vào ngôi chùa Biên Hòa ba pho tượng vàng. Do việc đó, người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở cõi âm, mà còn được Diêm Vương cho đi đầu thai làm vua Trung Quốc.
Ngày nay, ngôi chùa ở Biên Hòa còn mang tên là chùa Thủ Huồn: chỗ ngã ba sông Đồng Nai và Gia Định, còn gọi là sông Nhà Bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn đối với khách bộ hành Nam Bắc qua con sông đó[40].Có câu tục ngữ:
Nhà Bè nước chảy phân hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Khảo dị:
Truyện trên giống với truyện Người đi dạo âm phủ cũng do Génibre sưu tập:
Có hai vợ chồng một người Nam Định, nhà giàu có lớn. Họ sinh được một cô con gái rất xinh và khôn ngoan, tên là Trần Thị Xuân. Đặc biệt là mỗi bàn tay của cô có sáu ngón. Không may năm nàng mười ba tuổi, thì bị lên đậu trời mà chết.Thương nhớ con gái, hai vợ chồng không thiết làm ăn gì nữa. Nghe nói ở Quảng yên có chợ Mạnh Ma, ở đấy dương gian và âm phủ có thể gặp nhau được. hai vợ chồng bèn tìm đến, mong được gặp con.Họ có mang theo một cái quả bằng bạc sắm cho cô gái lúc còn sống. Nhằm ngày mồng một tháng sáu, họ đã đến chợ giả bày hành ra bán. Lát sau, người con gái đến hàng mua trầu, trông thấy cái quả của mình liền hỏi chuyện. Cha mẹ nhận ra con nhờ có bàn tay sáu ngón của cô và được con mời đi dạo cảnh âm phủ.
Chồng của cô là một viên quan giám thành, đưa cha mẹ vợ đi coi các cửa ngục. Khi đến cửa thứ nhất, hai vợ chồng thất kinh thấy tên tuổi của họ có yết ở cửa ngục. Họ vờ hỏi chàng rể tại sao có tên yết ở cửa, thì hắn bảo:-“ Hai người đó ở dương gian cho người ta vay nợ một lớp vốn năm bảy lớp lời làm cho người ta phải bán vợ đợ con nên yết lên để chờ làm tội”. Hai vợ chồng lại hỏi:-“Vậy chúng nó muốn khỏi tội thì phải làm thế nào?”.-“Phải làm chay bố thí cho hết của đó, mới mong thoát khỏi được”.
Trở về làng cũ, hai vợ chồng dốc của cải ra đón sư làm chay và mạnh tay bố thí. Sau khi hết của họ lại lần mò ra chợ Mạnh Ma tìm con gái và định đòi xuống âm phủ xem thế nào.Nhưng cô gái vừa gặp cha mẹ đã bảo:-“Cha mẹ đã sạch tội rồi, không còn thấy tên ở cửa ngục nữa. vậy chả cần xuống làm gì”.
Cả hai truyện trên có lẽ chịu ảnh hưởng từ một số Phật thoại Phật giáo trong đó có truyện Mục Liên thăm mẹ ở địa ngục khá phổ biến ở Việt Nam.
Phần cuối truyện Thủ Huồn tương tự với Sự tích sư ông Huyền Chân và Truyện bà Hiếu.
Sự tích sư ông Huyền Chân; Xưa, ở chùa Quang Minh, xã Hậu Bổng (Hải Dương) có một Hòa thượng nổi tiếng chân tu. Lúc về già, Phật Di Đà hiện lên báo mộng rằng:-“Nhà ngươi có công với đạo Phật, kiếp sau sẽ cho giáng sinh làm vua Trung Quốc”. Khi Hòa thượng chết, đệ tử vâng lời thầy viết vào vai mấy chữ: “ Hòa thượng Huyền Chân chùa Quang Minh”.
Về sau, có lần Sứ bộ Việt Nam sang Trung quốc. Khi yết kiến, chính sứ Nguyễn Tự Cường được vua Minh Hy Tông cho biết là mình sinh ra trên vai có mấy chữ, rửa mấy cũng không sạch, không biết đầu đuôi vì sao. Nguyễn Tự Cường về dò hỏi mới biết câu chuyện sư Huyền Chân, vội mang nước giếng chùa Quang Minh sang cho vua Trung Quốc.Kết quả, nước rửa đến đau chữ mất đến đấy.[41]
Truyện bà Hiếu: Ở làng Linh Chiểu Đông ( Gia Định) có người đàn bà tên là Hiếu, nhà giàu, không có con cái.Bà bèn lập chùa Hoa Nghiêm bao lấy một khoảng đất rộng để cho kẻ nghèo chôn cất làm phúc. Nhờ có công đức đó, nên khi chết được đầu thai làm con gái vua Trung Quốc.Công chúa khi đẻ ra có chữ son” Gia Định, Linh Chiểu Đông, chùa Hoa Nghiêm”. Vua Trung Quốc cho là sự lạ,gửi giấy sang hỏi bên ta. Sau đó vua sai cúng vàng bạc vào chùa và xin đưa bài vị sang để thờ.Làng không chịu, chỉ làm một bài vị khác đưa sang cho vua Trung Quốc.[42]

23.KHỔNG LỒ ĐÚC CHUÔNG HAY SỰ TÍCH TRÂU VÀNG HỒ TÂY

Ngày xưa vào đời nhà Lý, có một người gọi là Khổng lồ. Nhìn thấy thân thể ông, các tay lực sĩ trong triều ngoài quận đều khiếp sợ, mặc dầu ông chưa từng đọ sức với ai.Từ trẻ, Khổng lồ đã đi tu, ông thường đi chu du thiên hạ.Vật tùy thân của ông là một cây gậy sắt nặng không thể tưởng tượng được. Lại có một cái đãy rất mầu nhiệm. Đãy trông không khác gì những đãy thường, nhưng có thể bỏ lọt vào đấy bao nhiêu đồ vật to lớn, cồng kềnh, dù chất chứa thế nào cũng không đầy và cũng không to thêm.
Buổi ấy nhà vua cần nhiều đồng để đúc các khí vật thờ Phật, nhưng ngặt vì ở đất Việt không có đồng đen. Nghe tiếng Khổng Lồ, nhà vua cho triệu đến kinh nhờ sư đi sang Trung Quốc quyên giáo. Khổng Lồ nhận lời và xách đãy đi về phương Bắc.
Sau bao nhiêu ngày trèo non, lội suối, Khổng Lồ đã đến kinh đô Trung Quốc. Thấy một nhà sư to lớn xin vào yết kiến, vua Trung Quốc lấy làm lạ hỏi:
-Hòa thượng từ phương nào lại và đến đây làm gì?
Ông đáp:
-Chúng tôi cầu cầu Bệ hạ một ít đồng đen để mở rộng Phật pháp trong nước Đại Việt.
Vua ngỡ là còn nhiều người theo ông nữa, bèn hỏi:
-Quý quốc cần dùng bao nhiêu đồng? Hòa thượng đem theo cả thảy bao nhiêu đồ đệ?
Khổng Lồ giơ tay lên và tâu:
-Kẻ hạ thần chỉ sang có một mình và củng chỉ xin một đãy này là đủ.
Thấy cái đãy bé tí, Vua Trung Quốc mĩm cười:
-Hòa thượng có lấy cả trăm đãy, trẫm cũng vui lòng, huống chi là một đãy.
Đoạn vua sai nội thị mang lệnh cho quan giữ kho, mở kho đồng đen cho Khổng Lồ muốn lấy bao nhiêu thì lấy.
Trước khi vào kho phải đi qua một cái sân rộng. Ở đó có một cái nền gạch, trên nền dựng tượng một con trâu bằng vàng to như một cái nhà, sáng chóe cả một vùng trời đất. Quan giữ kho chỉ vào con trâu vàng hỏi đùa nhà sư:
-Hòa thượng có cần dùng cả con trâu này không?
-Không, tôi chỉ cần một ít đồng đen mà thôi.
Rồi đó, Khổng Lồ trút tất cả đồng trong kho lọt thỏm vào đãy của mình mà đãy vẫn còn vơi. Đoạn Khổng Lồ mắc đãy vào đầu gậy quảy về nước.
Quan giữ kho thấy hết nhẵn cả đồng, vội vã đem sự việc trình báo cho vua mình biết.Vua Trung Quốc không ngờ có sự phi thường như thế, lấy làm hối và tiếc, bèn sai năm trăm quân sĩ đuổi theo Khổng Lồ. Lúc ấy mặc dầu gánh nặng đè trên vai, nhưng Sư cũng đã đi được ba trăm dặm đường. Vừa đến một khúc sông rộng, Sư bỗng nghe tiếng reo dậy trời ở sau lưng. Ông ngoảnh cổ lại thấy bụi bốc lên mù mịt, đoán biết là vua Trung Quốc đã cho quân đuổi theo. Ông lật đật thả chiếc nón tu lơ xuống nước, đặt đãy lên rồi vừa bơi vừa đẩy qua sông. Bọn quân sĩ vừa tiến đến bờ thì Khổng Lồ đã ra đến giữa sông rộng. Bọn chúng đánh lừa nói rằng:
-Hòa thượng hãy chờ một tí, Hoàng đế cho chúng tôi khiêng giúp đồng và hộ tống ngài về.
Nhưng Khổng Lồ nói với lên:
-Bần Tăng gửi lời về cám ơn lòng tốt của Hoàng đế.Còn như cái đãy này để mặc Bần Tăng mang lấy, đâu dám làm phiền đến thiên sứ.
Bọn chúng biết là không thể đuổi kịp, bèn quay lại.
Sau đó, Khổng Lồ cứ theo dọc bờ biển đi bộ lần về phương Nam. Đến một cửa sông, ông gặp một chiếc tàu lớn, sắp sửa kéo buồm sang nước Việt. Khổng Lồ đặt đãy ở bến, đến gặp người chủ tàu xin cho đi nhờ. Chủ tàu thấy một mình Hòa thượng với một chiếc đãy, ước lượng không nặng thêm cho tàu bao nhiêu nên vui lòng cho ông đi.
Nhưng khi một thủy thủ xuống bến xách đãy hộ cho nhà sư lên tàu thì anh ta cảm thấy chưa bao giờ có vật nào nặng đến như thế.Người thứ hai nữa xuống giúp cũng chịu. Người thứ ba, thứ tư, cho đến mọi thủy thủ trên tàu cùng nhau khiêng, ai nấy đều cũng phải lắc đầu vì chiếc đãy vẫn không hề nhúc nhích.Bấy giờ Khổng Lồ ở trên tàu xuống, cười và bảo:
-Để Bần Tăng tự mang lên cho, không phiền đến các người!
Nói rồi một tay xách đãy, một tay cầm nón và gậy bước lên tàu trước mắt kinh ngạc của mọi người.
Thấy tàu quá nặng, nước mấp mé then, mọi người ngần ngại không dám nhổ neo. Khổng Lồ bảo họ:
-Các người chớ ngại, tôi quyết không để cho tàu chìm đâu.
Thuận buồm xuôi gió, tàu rẽ nước đi băng băng. Được mấy ngày, bỗng xảy ra một trận phong ba dữ dội. Một con ngô công mình dài trăm trượng, miệng há đỏ như lửa đang vẫy vùng sóng gió chồm đến toan nuốt tàu. Mọi người trên tàu chòng chành, vô cùng kinh sợ.Khổng Lồ nói to:
-Các người cứ ngồi yên, để mặc ta trừ con quái vật này!
Nói đoạn sẵn có quả bí lớn, ông cầm lấy đứng ở mũi tàu ném vào miệng ngô công. Ngô công vừa đớp lấy thì ông đã nhảy xuống nước cầm gậy đánh vào mình nó. Ngô công chạy không kịp bị gãy xương, đứt làm bao đoạn và hiện thành ba hòn đảo nổi lên giữa biển. Ngay sau đó, sóng gió yên lặng, tàu lại đi một mạch về tới đất Việt.
Về tời kinh đô, Khổng Lồ vào chầu vua và kể lại mọi việc. Vua sai Sư đem đồng ra đúc bốn thứ bảo khí thờ Phật để mọi người ngưỡng mộ và lưu truyền lâu dài lại ngàn đời sau.Khổng Lồ bèn cho gọi bao nhiêu thợ đúc tài giỏi trong nước đến, rồi mổ đãy lấy đồng ra chia làm bốn phần. Đầu tiên ông đúc một cái tháp cao chín tầng, gọi là tháp Bảo Thiên.Tháp đúc xong hiện ra giữa kinh thành vòi vọi, đứng đâu cũng thấy. Khổng Lồ lại đúc một tượng Phật cao vừa 6 trượng, một cái đỉnh to vừa bằng 10 người ôm. Rồi còn lại bao nhiêu đồng, Khổng Lồ cho đúc một quả “hồng chung”…Chuông đúc xong to lớn không thể tưởng tượng được, đến nỗi khi đánh lên hồi đầu tiên, tiếng ngân vang cùng khắp bốn cõi, vang vang đến tận Trung Quốc.
Lại nói chuyện con trâu vàng nằm trước kho đồng của nhà vua Trung Quốc, khi tiếng chuông , nó tự nhiên như được thức tỉnh dậy. Vì đồng đen là mẹ của vàng, cho nên do tiếng ngân ấy, nó biết là mẹ nó đã ở nước Việt. Nó bèn đứng dậy vươn người rồi ba chân bốn cẳng chạy một mạch sang Nam, không một sức mạnh nào có thể cản nổi. Cuối cùng nó tìm đến quả chuông do Khổng Lồ mới đúc, hôn hít hồi lâu rồi nằm xuống bên cạnh.
Thấy việc không ngờ lại xảy ra như thế, Khổng Lồ tự nghĩ:-“Nếu để chuông lại thì mỗi lần đánh chuông, vàng trong bốn bể sẽ qui tụ về nước mình, mà đà như thế thì sẽ rất nguy hiểm, vì sẽ gây hiềm khích với mọi nước”. Ông bèn tâu vua đem quả chuông ném cho mất tích để tránh cuộc đao binh tai hại có thể xảy tới.Nhận thấy lời tâu có lý, vua đành phải đồng ý. Ngày ném, Khổng Lồ đứng trên núi, xách quả chuông vứt xuống hồ Tây. Chuông bị tung lên không bay ra giữa hồ, vang lên một hồi rất dữ dội.Con trâu vàng nghe tiếng,vội theo mẹ nó nhảy ngay xuống hồ. Từ đó về sau, thỉnh thoảng giữa những lúc thanh vắng, người ta vẫn thấy quai chuông nổi lên mặt nước.Còn con trâu vàng thì thỉnh thoảng lên bờ hồ đi dạo, hễ thoạt thấy bóng người thì thoắt lặn xuống ngay. Cũng vì câu chuyện trên mà hồ Tây còn có tên là Vực Kim Ngưu ( Trâu vàng). Riêng Khổng Lồ, về sau được thợ đúc đồng thờ làm thần nghề đúc đồng.[43]

24.TỪ ĐẠO HẠNH hay SỰ TÍCH THÁNH LÁNG

Vào thời nhà Lý, có một ông sư quê ở làng Láng gần kinh đô, tên là Từ Vinh.Từ Vinh học được phép tàng hình. Không những thế,hắn còn biết cả phép biến mình thành bất cứ một con vật gì hay bất cứ một người nào khác. Khi học được phéplạ, hắn không nghĩ đến việc lợi dụng phép thuật để giúp đỡ người nguy kẻ khó, mà chỉ nghĩ cách tìm khoái lạc cho bản thân, Cho nên, hắn đi khắp mọi vùng, bề ngoài làm bộ giảng đạo, nhưng kỳ thực là để gần gũi những người đàn bà mà hắn ưa thích. Hắn đã có phép, lại không kém khôn ngoan, nên chả một ai hay biết cả.
Từ lúc Từ Vinh thi đậu khoa thi Bạch Liên, được vua thăng chức Tăng quan Đô Sát, một chức quan lớn trong triều đình, thì hắn lại lén lút tìm gái ở vùng kinh kỳ. Bấy giờ, ở kinh có một nhà quý tộc tên là Diên Thành Hầu, có phủ đệ đẹp đẽ trên bờ sông Cót, gần làng Từ Vinh. Diên Thành Hầu có một đám vợ và nàng hầu, trong đó có một nàng trẻ tuổi, nhan sắc xinh đẹp, dễ thường trên đời khó ai sánh kịp. Từ Vinh chú ý đến nàng.
Phủ đệ Diên Thành Hầu canh gác rất nghiêm nhặt, nhưng đối với Từ Vinh thì chẳng mùi gì. Nhè những đêm Diên Thành Hầu vắng mặt, Từ Vinh tàng hình lọt vào buồng của nàng, rồi biến thành chồng nàng lên giường giao hoan.Sáng dậy, y lại tàng hình đi ra khỏi cổng trước mắt bọn gác.Vì thế, chẳng những cả nhà Diên Thành Hầu không một ai biết mà chính người đàn bà nọ cũng không ngờ là ngoài chồng mình ra còn có một người đàn ông thứ hai nữa.
Một hôm,giữa lúc Từ Vinh tàng hình bước ra khỏi buồng người đàn bà, thì chính là lúc Diên Thành Hầu lại vào với vợ. Người đàn bà vội kêu lên:
-Sao phu quân vừa ra đã lại trở vào?
Nghe nói thế, Diên Thành Hầu hiểu ngay nông nổi và sau khi tra gạn vợ, ông mới biết gian phu không phải là người tầm thường, nếu không có một pháp sư cao tay thì đừng hòng trị nổi.Diên Thành Hầu căm tức vô cùng, sau một lúc lâu suy nghĩ, ông sực nhớ đến nhà sư Đại Diên phép thuật cao cường nhất trong nước, từng được vua ban tước Quốc sư và đã trổ tài mấy phen trị tà bắt quỷ.
Khi nghe Diên Thành Hầu kể lại câu chuyện, Đại Diên đưa cho ông ta một sợi chỉ ngũ sắc và dặn rằng:
-Hầu về đưa sợi chỉ này cho bà ấy, chờ lúc gian tế đến, lẳng lặng buộc vào ngang lưng. Một mặt cho rắc một lớp tro mỏng trước cửa buồng, cho người nấp chỗ kín canh gác. Đợi lúc nào thấy có dấu chân giẫm lên tro thì đóng ngay cửa lại, dán lá bùa này vào rồi cho người tức tốc đến đây báo tin cho bần đạo. Bần đạo sẽ vì Hầu trừng trị con dâm quỷ.
Diên Thành Hầu về, làm đúng như lời dặn. Quả nhiên một đêm nọ, Từ Vinh tàng hình mò tới. Hai tên nô chầu chực đêm ngày ở cửa ,bỗng nhìn thấy có những dấu chân tiến vào buồng mà không thấy có người, vội dán lá bùa lên cánh cửa rồi phi báo cho chủ biết. Đêm âý, Từ Vinh vô tình, không ngờ có cạm bẫy đang giương ra chờ mình, nên chỉ một lúc sau, người vợ Diên Thành Hầu đã buộc được sợi chỉ ngũ sắc vòng quanh lưng mà hắn cũng không hay biết gì cả.
Nghe có tiếng động, Từ Vinh vội niệm chú biến thành một con gián. Nhưng khi bay đến cửa, hắn mới biết rằng khắp mọi nơi đều có phép thần kín mít như bưng, không một khe hở nào chiu lọt. Giữa lúc đó thì Đại Diên đã cầm đuốc tiến vào buồng. Gián ta hoảng hốt bò vào một khe vách, nằm im tại đó. Cuộc tìm tòi của Đại Diên đã tưởng trở nên vô hiệu. Mãi về sau, vì có sợi chỉ ngũ sắc buộc quanh mình thò ra ngoài vách, nên Đại Diên lôi ngay được gián ra.Trong tay thần của Đại Diên, Từ Vinh hết phương trốn tránh, đành chỉ kêu van xin tha mạng. Đại Diên hỏi:
-Mày là ai?
Đáp:
-Tôi là Từ Vnh.Xin Hòa thượng nghĩ đến tình đồng triều, đồng đạo, tha cho tội chết.
Nghe kẻ tội phạm xưng tên, Đại Diên nghĩ bụng:-“Phép thuật của hắn có tiếng là cao cường không kém gì ta. Nếu không sa cô vì mấy lá bùa, chưa chắc hắn đã chịu kêu van như thế này đâu. Tha cho hắn sẽ nguy hiểm cho ta. Tất phải trừ đi để khỏi hậu hoạn”. Nghĩ vậy sư ta cười gằn bảo Từ Vinh:
-Mày là kẻ tu hành, lại được triều đình trọng dụng mà cố tình phá giới, phạm tội chồng chất như thế này ru? Tha cho mày sao được! Thôi ta hóa kiếp cho mày để lo tu chỉnh về sau.
Từ Vinh chưa kịp kêu thì đã bị bàn tay Đại Diên bóp nát vụn. Xác con gián vừa rơi xuống đất thì đã hiện nguyên hình thành Từ Vinh. Đại Diên đá vào cái thây nói:
Kiếp này đã vụng đường tu,
Hãy đền tội lỗi, đền bù kiếp sau.
Đoạn, ngoảnh bảo Diên Thành Hầu:
-Thế là trừ được một con dâm quỷ. Hầu cứ bảo người nhà vứt thây nó xuống sông.
Diên Thành Hầu hết lời cảm tạ và sai người nhà mang mười lạng vàng tống tiễn Quốc sư về chùa.
Nhưng sáng hôm sau, giữa lúc Đại Diên đang tụng kinh thì một tên nô của nhà Diên Thành Hầu đã hốt hoảng chạy tới báo tin:
-Bạch sư cụ, cái thây hôm qua không chịu trôi. Nó cứ đứng sững giữa sông Cót trên mặt nước, tay chỉ vào nhà hầu tôi, mắt nhìn trừng trừng , rất dữ tợn. Hầu tôi kính mời Sư cụ tới trị ngay cho!
Nghe nói, Đại Diên theo đến, chỉ tay vào thây Từ Vinh, đọc một câu quyết:
Sống chết là giấc chiêm bao,
Dầu giận thế nào không để cách đêm[44]
Tự nhiên cái thây chìm xuống nước và trôi đi mất.
Lại nói chuyện Từ Vinh có một người con trai tên là Từ Đạo hạnh. Chàng mới hai mươi lăm tuổi, rất chăm học và rất có hiếu.Cái đêm cha bị giết, Từ Đạo Hạnh được cha báo mộng cho biết sự tình và nhắc đi nhắc lại tên Đại Diên, dặn phải trả thù cho bằng được. Tỉnh dậy, chàng hốt hoảng đi tìm cha, và chàng xiết bao đau đớn khi thấy thây cha nổi lên mặt nước. Nóng lòng vì báo thù, chàng cầm côn đi tìm Đại Diên. Chờ lúc Đại Diên đi đường một mình, chàng đuổi theo kẻ thù toan chuyện phang cho một côn trên cái đầu trọc. Nhưng vừa định vung côn, chàng bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng can của cha mình: “ Chớ!Chớ nóng nảy!Muốn bóc vỏ quit dày cần có móng tay nhọn đã!”
Vì thế Từ Đạo Hạnh lại thu côn vào nách, nuốt giận trở về. Chàng tính chỉ có cách tìm thầy học phép mời trừ được kẻ thù lợi hại kia. Nghĩ vậy, chàng bỏ nhà đi khắp mọi nơi tìm thầy, thề quyết bao giờ “đắc đạo”mới chịu trở về.
Hồi ấy, ở miền ven biển phía Nam, có hai người bạn tâm giao: một người là Nguyễn Minh Không và một người là Dương Không Lộ.Cả hai người đều làm nghề chài lưới nhưng rồi rủ nhau cắt tóc đi tu.Sau bao nhiêu năm đọc kinh gõ mã vẫn chưa đắc đạo, một hôm Nguyễn Minh Không nói với bạn:
-Tôi nghe muốn nhìn được xa thì phải trèo lên núi cao, muốn uống nước ngọt thì phải tìm đến tận nguồn. Vậy muốn đắc đạo trừ phi tìm đến quê hương của Như Lai thì không còn cách nào khác.
Dương sẵn lòng đi với bạn, dù có gặp núi cao biển rộng, khó khăn đến đâu cũng không quản ngại.
Thấy hai chú tiểu cùng phát thệ đi đến đất Phật, một vị sư bác trong chùa cũng hăm hở đòi đi theo.Nhưng hồi ấy, đường đất từ nước nhà sang đến Thiên Trúc thật là muôn vàn nguy hiểm và vô cùng gian khổ. Cho nên sau khi đi được mấy ngày, vị sư bác đã thấy chùn chân, đành cáo bệnh trở về chùa cũ. Chỉ có hai người bạn trẻ vững lòng nhắm hướng Tây tiến bước.
Một hôm, họ đến một vùng núi cao. Hai người chui vào một ngôi miếu cổ bên đường để ẩn mưa, bỗng gặp một người trẻ tuổi đang ngồi đốt lửa sưởi ở trong đó. Họ bắt đầu làm quen vá biết rằng đấy là Từ Đạo Hạnh cũng lặn lội đi tìm thầy học phép để trả thù cha. Sau một đêm chuyện trò, ba người kết bạn với nhau.Từ Đạo Hạnh nhiều tuổi hơn được tôn làm anh cả, Dương Không Lộ thứ hai và Nguyễn Minh Không là em út.
Cuộc hành trình vất vả kéo dài mấy năm trời. Họ đã trèo qua bao nhiều là núi rừng, lội qua bao nhiêu là sông suối, chung sống với bao nhiêu là người dị chủng. Mặc cho ốm đau, đói khát, rách rưới họ vẫn không chịu nản.
Một hôm, vừa qua xứ Mán Răng Vàng,họ bỗng gặp một ông cụ chở chiếc thuyền độc mộc ở giữa sông. Họ gọi lại hỏi đường. Ông cụ cho biết là theo con đường sông này sang quê hương Phật tổ thì không còn bao lâu nữa. Ông cụ còn sẵn lòng chở họ đến nơi. Mừng quá, ba người xuống thuyền và thuyền đi nhanh vùn vụt, chả mấy chốc đã đến đất Phật.
Ông cụ lái đò chính là đức Phật Như Lai. Nghe tin có người thành khẩn mộ đạo đến nỗi không quản gian lai nguy hiểm, nên đức Phật hiện xuống ,dùng phép thần thông đưa họ đi. Nhưng khi nghe nói mục đích học đạo của Từ Đạo Hạnh thì đức Phật không bằng lòng.Cho nên khi đến nơi, ông cụ lái đò bảo Từ Đạo Hạnh ở lại trông thuyền cho hai anh em lên thăm dò trước đã rồi có gì sẽ trở lại báo sau. Thế rồi đức Phật đưa Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ về độ cho thành chính quả và truyền cho tất cả các thuật biến hóa huyền diệu. Sau khi đắc đạo, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không cúi đầu lạy tạ đức Phật rồi lên đường về nước.
Nói chuyện Từ Đạo Hạnh, ngồi chờ mãi không thấy hai em trở lại, trong bụng lấy làm lo lắng, chưa biết nên tìm cách gì. Xảy gặp một bà cụ già từ trên bờ đi xuống bến, xin sang sông.Chàng vui lòng chống đò giúp bà cụ,luôn tiện chàng hỏi thăm:
-Cụ có thấy một ông già và hai anh chàng đi về ngả ấy không?
Bà cụ đáp:
-Có.Họ đã gặp đức Phật và đã đắc đạo rồi!
Nghe nói thế,Từ Đạo Hạnh đoán chắc bà cụ này không phải là người phàm trần, vội sụp lạy kêu nài:
-Xin cụ rủ lòng thương cho, kẻ đệ tử này mối thù cha trong lòng canh cánh, không lúc nào nguôi.
Bà cụ vốn là một vị Bồ-tát được đức Phật sai đến đây, bèn trả lời:
-Chính vì tìm đến cõi Phật với một điều ác trong lòng nên không được độ.
Chàng mếu máo bày tỏ lời thề của mình trước linh sàng của cha cho bà cụ nghe và lạy lục, vật nài đến kỳ cùng. Bà cụ bảo:
-Nếu lấy oán báo oán sẽ không tránh khỏi nghiệp báo. Nhưng vì người có lòng thành khẩn nên ta cũng truyền cho.
Đoạn dạy cho Từ Đạo Hạnh mọi thuật biến hóa mầu nhiệm và để cho chàng có thể đối địch với kẻ thù, nên Bồ-tát còn dạy cho phép hô thần, tróc quỷ bằng cách tụng chú Đà-la-ni.v.v…
Thế là từ đó Từ Đạo Hạnh cũng biết một số phép thần thông. Cho nên, lúc Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không từ đất Thánh trở về thì chàng đã độn biết được trước, mới định tâm đùa một mẻ để hai bạn hoảng sợ chơi. Khi họ sắp sửa đến bến đò phải đi qua một khu rừng rậm, Từ đã hóa thành một con hổ lớn từ trong bụi xông ra định vồ, nhưng chàng không ngờ rằng hai bạn mình đều đã học được phép Phật, nên khi nhìn thấy hổ thì đếu đoán ran gay đó là Tư. Họ đồng cười lên.Nguyễn Minh Không đi đầu nói:
Thôi đừng đùa cợt chi nhau
Muốn làm kiếp ấy rồi sau được làm.
Nghe thế, Từ Đạo Hạnh giật mình tỉnh ngộ. Nhờ phép thần, chàng thấy được kết quả của tội lỗi mình ở kiếp sau. Chàng bèn niệm chú hiện lại nguyên hình rồi cười đỡ thẹn:
-Anh chỉ định tâm thử chơi, không ngờ mua cười với hai em. Phép thuật của hai em như thế đủ biết không phải tầm thường.Anh chỉ mong em ba đến lúc đó sẽ hết sức giúp anh qua khỏi nghiệp chướng.
Thế rồi ba anh em lên đường về nước.Lần này, họ đi vùn vụt như tên, chả mấy chốc mà trước mắt họ đã thấy sông Lô, núi Tản. Ba người chia tay nhau .Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ trở về quê hương. Còn Từ Đạo Hạnh thì không về nhà. Chàng nghĩ bụng:-“Ta phải tìm mộtnơi nào yên tĩnh để tu luyện thêm cho đến chừng hơn hẳn kẻ địch, lúc bấy giờ sẽ gọi hắn đến đương trường tỷ thí chứ không them đánh lén lút”. Chàng bèn tìm đến thạch thất, vào một hang đá ngồi xếp bằng, tu theo lối trường định. Theo như lời dặn, hàng ngày chàng niệm chú Đà-la-ni một vạn tám nghìn lần.
Sau ba tháng mười ngày khổ luyện, tự nhiên một hôm chàng vừa đọc câu chú, bỗng có một vị thần mặt xanh mỏ đỏ hiện ra trước mặt rồi nói:
_Từ Đạo Hạnh, anh cần sai bảo gì, tôi xin tuân lệnh.
Từ biết là đạo pháp của mình đã đến ngày thông được với Thần, mừng quá vội nói:
-Ta cần trả được thù cha.Lập tức đưa ngày ta về kinh thành.
Thốt nhiên, chỉ trong nháy mắt, Từ Đạo Hãnh đã xuất hiện ở phía Bắc Hoàng cung. Chàng bước lần đến ngã ba sông Cót, ném xích trược xuống nước. Giữa dòng nước chảy xuôi, gậy cứ lừ lừ trôi ngược. Chàng đuổi theo cây gậy bấy giờ đã lướt sóng như một con rồng cho đến cầu Tây Dương thì dừng lại.Chàng vội tàng hình bước vào nhà Đại Diên.Bấy giờ Đại Diên đang ngồi nói chuyện trước một số đông quan khách. Chàng tiến đến trước mặt, hiện lại nguyên hình và bảo Đại Diên:
-Đại Diên! Mày có biết tao là ai không? Tao là Từ Đạo Hạnh, con Từ Vinh. Ác giả ác báo. Mày giết chết cha tao,tao phải giết mày! Thôi mày sửa soạn đi!
Biết là gặp phải đối thủ không vừa, Đại Diên khởi thế tấn công ngay.Nhưng phép thuật của hắn không thể nào đương nổi chiếc gậy thần của Từ Đạo Hạnh. Vì thế cuộc chiến đấu diễn ra không lâu. Chỉ một gậy của Từ giáng xuống, hắn ngã vật chết ngay, chỉ kịp nói được mấy tiếng:
-Hỡi Từ Đạo Hạnh, tao sẽ diệt mày!
Nói chuyện vua nhà Lý, hồi ấy tuổi đã già mà không có con. Bao nhiêu Hoàng hậu và Phi tần trong hậu cung chưa từng có một người nào chửa đẻ. Nhà vua hết cầu trời khấn phật, đến tìm thầy chạy thuốc, nhưng chẳng ích gì. Những bùa phép, thuốc men của các Pháp sư, các lang y, chả có một thứ nào ra hồn. Người ta đều nói, vì mẹ của vua ác nghiệt nên bị trời phạt như thế, mà trời đã phạt thì đừng hòng cưỡng lại.
Thất vọng, nhà vua dự định nuôi con nuôi. Một hôm, viên Chuyển vận sứ Thanh Hóa về kinh chầu vua, có báo một tin rất lạ:
-Một nhà dân chài ở miền biển có sinh một đứa bé thần dị. Lên ba tuổi, nó đã biết nói và tự xưng là Giác Hoàng. Nó biết tất cả các việc trên trời dưới đất và tất cả mọi việc trong triều,ngoài nội.Và điều này mới đáng chú ý là Hoàng thượng làm gì nó cũng biết cả.Nó còn tự xưng là con của Hoàng thượng.
Nghe nói thế, vua liền cho đứa bé về cung. Thấy mặt mũi nó sáng sủa, hỏi đâu biết đấy, nhà vua đem lòng yêu dấu, muốn nuôi làm con để một ngày kia trăm tuổi sẽ truyền cho ngôi báu. Có mấy vị đại thần khi nghe vua dò ý tứ thì vội can ngay:
-Tâu Bệ hạ, Bệ hạ làm thế sợ lòng dân không phục. Nếu nó linh dị như thế, sao không thác sinh vào cung để mang lấy dòng máu của Hoàng đế, lại đi làm kiếp con nhà bần tiện?
Nhà vua mang lời tâu ấy kể lại cho đứa bé nghe. Giác Hoàng xin vua dựng cho một cái đàn tràng, mời thầy làm lễ trong bảy đêm ngày, nó sẽ có cách đầu thai được. Vua mừng lắm. vội sai các quan làm y như lời nó dặn.
Tin ấy truyền đi khắp mọi nơi và đến tai Từ Đạo Hạnh. Biết ngay đó là kẻ thù của mình, chàng bèn tìm đến nhà chị ruột, đưa cho chị bốn lá bùa, nhờ về kinh đô, tìm đến đàn tràng, giắt lên mái; mỗi lá giắt về một phương. Quả nhiên sau đó ba ngày, Giác Hoàng bỗng bị bệnh nguy kịch.Gặp vua, hắn tâu:
-Tâu Bệ hạ, bây giờ thì khắp mọi nơi đâu đâu cũng có lưới sắt vây kín, không thể nào thác sinh được. Hạ thần chỉ còn chờ chết.Mong Bệ hạ trị tội Từ Đạo Hạnh, vì chính hắn đã âm mưu giết hạ thần và phá hoại cơ nghiệp lâu dài của Bệ hạ.
Nói xong thì chết.
Thấy Giác Hoàng chết,Vua nổi cơn thịnh nộ, lập tức sai người đi tra xét, quả bắt được mấy lá bùa có pháp ấn Từ Đạo Hạnh. Vua vội sai mấy đội vệ sĩ đi bắt Từ về kinh trảm quyết.Bị quân lính giải đi,Từ ĐạoHạnh không dám trái lệnh.Qua phủ đệ Sùng Hiền Hầu ở phía Tây kinh thành, chàng cố nài bọn họ cho mình vào yết kiến.Sùng Hiền Hầu nguyên là em ruột vua và cũng như vua, hắn không có con trai.Từ Đạo Hạnh chợt nghĩ ra được một kế.Cho nên khi gặp hắn, chàng cố nài hắn tâu giúp để vua tha tội cho mình. Đổi lại, chàng sẽ tìm cách đầu thai làm con hắn và chắc chắn thế nào cũng phải được.Sùng Hiền Hầu nghe bùi tai, liền đi vào Hoàng cung bênh vực cho Từ:
-Tâu Bệ hạ, không nên nghe lời một đứa bé để giết hại một nhà tu hành.Nếu Từ Đạo Hạnh mà diệt được Giác Hoàng thì phép thuật của Giác Hoàng sao ví được với Từ Đạo Hạnh.Bệ hạ nên lưu ý lại để dùng khi quốc gia hữu sự…
Nhân đấy, Từ Đạo Hạnh cũng tâu thêm:
-Tâu Bệ hạ, nó là tà ma ngoại đạo hiện ra để hãm hại mọi người.Bần Tăng không thể ngồi yên mà nhìn, để cho tà ma làm loạn cả chính pháp, nên vượt phép Bệ hạ trừ bỏ nó đi.Nay việc đã xong, Bần Tăng xin cuối đầu chịu tội.
Nghe mấy lời nói có lý, nhà vua dần dần nguôi giận ,tha bổng cho Từ.
Hôm đó, về đến nhà Sùng Hiền Hầu,Từ Đạo Hạnh xin phép vào gặp vợ hắn.Người nhà cho biết là phu nhân đang bận tắm.Từ bảo:
-Thế thì lại càng hay!Xin cho đưa vào ngay!
Bấy giờ người vợ Sùng Hiền Hầu đang giội nước trong buồng tắm, bỗng thấy có một vị Hoà thượng xô cửa bước vào.Trong lúc hoảng hốt, chưa kịp kêu la thì đã thoáng thấy ở trong bồn nước có bóng một đứa trẻ.Người đàn bà ấy chưa hiểu ra thế nào cả thì Từ Đạo hạnh đã bước ra khỏi nhà tắm.Dặn lại Sùng Hiền Hầu:
-Bao giờ phu nhân sắp ở cữ, xin cho người hỏa tốc báo tin cho biết ngay.
Dặn xong, đoạn lại trở về thạch thất.
Từ hôm ấy,Sùng Hiền Hậu trông trông mừng mừng.Một đêm nọ thấy vợ chuyển bụng,hắn theo đúng lời dặn,vội sai gia nhân phi ngựa lên thạch thất báo tin.Hôm đó,Từ Đạo Hạnh đang ngồi trước hang đá thuyết pháp.Học trò có đến hàng ngàn người vây quanh cửa hang.Bỗng có tin người nhà Sùng Hiền Hầu xin ra mắt Hòa thượng.Từ Đạo Hạnh bảo các môn đồ:
-Thời đã đến rồi vậy!Ta sắp sửa đi đây!
Nói xong, đọc mấy câu kệ dặn dò, rồi ngồi xếp bằng lại mà hóa.
Gữa lúc Từ Đạo Hạnh chết thì ở Thăng Long người vợ Sùng Hiền hầu sinh hạ một đứa con trai, đặt tên là Dương Hoán. Năm mười lăm tuổi, Dương Hoán được vua nuôi làm con.Và sau đó lấy làm đẹp lòng vì tính nết có thể giữa được ngôi báu dòng họ Lý,nhà vua phong cho làm Hoàng Thái tử.Năm hai mươi tuổi,Dương Hoán đã lên ngai vàng kế vị cha nuôi, trị vì thiên hạ, tức là Lý Thần Tông.
Nhưng sau khi lên ngôi báu được ba năm thì Lý Thần Tông bỗng bị một bệnh lạ lùng.Thoạt tiên, nhà vua thấy ngứa ngáy khắp cả mình mẩy, càng gãi bao nhiêu thì lông càng mọc nhiều bấy nhiêu.Mãi về sau, toàn thân mọc đầy thứ lông màu vàng có vằn đen như da hổ, miệng thỉnh thoảng lại gầm lên những tiếng dễ sợ.Nhà vua suốt ngày ngồi lù lù trong một góc buồng, áo quần mặc vào bao nhiêu xé rách bấy nhiêu.Trước tin này, khắp mọi thần dân đều ngơ ngác.Tất cả các viên ngự y đều lắc đầu bó tay, không biết bệnh gì mà chữa.Bọn nội thị kháo nhau:-“Có lẽ Hoàng đế hóa làm chúa sơn lâm thì phải”.
Triều đình và nội cung vì việc vua đau cuống quýt cả lên.Ngoài những vị lương y, còn có những pháp sư, phù thủy được triệu đến làm phù phép, nhưng luôn trong năm tháng, bệnh của vua chỉ ngày một tăng chứ không có giảm.Hoàng Thái hậu lo sợ quá, sai yết bảng rao:-“Nếu ai chữa được vua lành bệnh sẽ chia cho nửa nước”.
Thì bỗng nhiên, một hôm có vị đại thần đi ra ngoài cửa ô, nghe đám trẻ chăn trâu hát lên mấy câu:
Tập tầm vông!
Có ông Nguyễn Minh Không,
Chữa cho vua khỏi hóa.
Tập tầm vá!
Muốn chữa vua khỏi hóa,
Phải đón Nguyễn Minh Không.
Viên đại thần vừa ngạc nhiên, vừa mừng,vội về triều báo tin cho Hoàng gia biết.Lập tức triều đình phái một viên võ tướng mang năm trăm quân sĩ xuống mười chiếc thuyền lớn,xuôi sông đi về miền biển, triệu Nguyễn Minh Không.
Lại nói chuyện,từ khi chia tay hai bạn,Nguyễn Minh Không vào Ninh Bình trụ trì ở một ngôi chùa nhỏ,lấy tên là Giác Hải.Trong những cuộc đi chơi,chàng đã dùng pháp thuật của mình giúp đỡ mọi người.Một lần đi qua xã An Vệ, thấy người dân ở đây đang khổ vì đại hạn:lúa héo khắp cả cánh đồng.Chàng bảo người làng đan gấp cho mình một cái giỏ bằng tre thật lớn, ngoài phết giấy. Đoạn đưa ra sông cả múc nước, một mình đội về giội xuống ruộng.Nước chảy lênh láng khắp cả cánh đồng.Chỗ nước giội xuống, nay hóa thành cừ.Nhờ thế mà lúa lại mọc khỏe,dân làng lại được mùa.
Khi quân sĩ tìm được đến chùa thì Nguyễn Minh Không đang tụng kinh buổi trưa.Viên võ tướng mang quốc thư lên trình.Chàng đọc xong, quay lại nói với bọn họ:
-Bây giờ đã quá trưa, các vị đi đường chắc là đói bụng.Nhà chùa thanh đạm chẳng có gì, nhưng cũng mời tất cả các vị dùng cơm chay một bữa rồi hẵng nhổ sào cũng chưa muộn.
Nói đoạn chàng giục một chú tiểu bắc nồi thổi cơm và làm thức ăn.Nhìn thấy chú tiểu bắc một chiếc nồi tí tẹo lên bếp, lại thấy Hòa thượng giết thịt một con chim sẽ thì viên võ tướng không nhịn được cười:
-Bạch Hoà thượng, chúng tôi đi đây có đến năm trăm quân sĩ.Nay Hòa thượng cho ăn như thế chỉ sợ một người vẫn chưa thể nào thòm thèm,huống hồ là năm trăm người.Hiện nay lương thực còn ở dưới thuyền, xin để chúng tôi tự lo lấy cái ăn, khỏi phải làm phiền đến cửa Phật.
Nguyễn Minh Không đáp:
-Các vị chớ ngại, nhà chùa tuy nghèo, nhưng không để các vị phải đói đâu.
Nói xong,quay ra đun nấu một tý rồi bảo quân sĩ sắp hàng theo từng đội ngũ, lần lượt vào nhận phần cơm.Quân sĩ lũ lượt từng người đến trước hai cái nồi đất tý hon xới cơm và gắp thịt chim sẻ vào bát.Không ai không ngạc nhiên vì từ hai cái nồi mầu nhiệm ấy bới bao nhiêu lại đầy ùn lên bấy nhiêu.Nguyễn Minh Không luôn luôn giục họ bới cho thật đầy để ăn cho rõ no.Và rồi chỉ trong một lúc, năm trăm quân sĩ dự xong bữa tiệc của nhà chùa thết.
Ăn xong, chàng bảo họ ai về thuyền nấy nghỉ ngơi trước khi nhổ sào tiến kinh.Cả tướng lẫn quân quay ra làm một giấc ngủ ngon lành. Nhưng khi tỉnh dậy,tất cả mọi người đều hết sức sửng sốt, vì họ thấy mình đã đến bến Ngự từ lúc nào rồi.Nguyễn Minh Không theo viên tướng vào cung.Bấy giờ các pháp sư ngồi đầy cả điện Thái Hòa.Họ đang tụm năm tụm bavẽ bùa thử phép rì rầm khắp nơi.thấy một nhà sư có vẻ quê mùa bước vào, họ liền bỉu môi:
Chuông khánh còn chả ăn ai,
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre.
Chàng không nói gì cả,cúi đầu chào mọi người, rồi rút trong áo lấy ra một chiếc đinh dài, đóng sâu vào cột chừng một tấc, đoạn ngoảnh lại nói to lên, bảo mọi người rằng:
-Ai tay không nhổ được cái đinh này thì người ấy sẽ chữa lành bệnh cho Thiên tử.
Nghe nói thế, các pháp sư đều chạy lại thử rút cây đinh, nhưng chả một ai lắn nổi.Cuối cùng, Nguyễn Minh Không bước lại, dùng hai ngón tay khẽ rút ra như bỡn trước con mắt kính phục của mọi người.Thế rồi chàng đi thẳng vào nội điện, đến trước long sàng.Lý Thần Tông bấy giớ đang nằm ngửa, xunh quanh có đến hàng chục nội thị đang giữ lấy tay chân.Thỉnh thoảng, bệnh nhân lại gầm lên và cố sức giãy giụa.Nguyễn Minh Không nhìn trừng trrừng vào mắt bệnh nhân và nói lớn:
-Còn nhớ cố nhân nữa không? Được làm con Trời giàu có bốn biển mà cũng không thoát khỏi nghiệp báo ư?
Nghe nói, nhà vua bắt đầu có vẻ sợ, nằm im thin thít.Chàng sai đặt trước sân điện một cái vạc lớn đổ thuốc và dầu vào, bắt đầu nấu sôi lên sùng sục. Đoạn chàng xắn tay áo, thò tay vào vạc quấy đều lên.Chàng ra lệnh vực vua lại gần, rồi tự tay cầm gáo múc dầu trong vạc ra tắm cho vua.Dầu chảy đến đâu lông lá trôi đến đấy, da thịt nhà vua lại trắng trẻo như xưa.
Sau khi nhà vua lành bệnh, triều đình không ngớt lời khen ngợi phép thần diệu của Nguyễn Minh Không.Họ y ước, cắt đất phong thưởng, nhưng chàng không nhận nói:
-Bần tăng chỉ vì một lời hứa với người bạn cũ chứ không phải vì phú quý.
Đoạn bỏ về chùa cũ.
Khảo dị 1:
Truyện này đã được nhà chùa uốn nắn lại với dụng ý đề cao Phật giáo, lại cắt xén đi nhiều chỗ như những đoạn về Từ Vinh, về Từ Đạo Hạnh làm phép đầu thai,v.v…Mặt khác,câu chuyện còn bị nhập cục với truyện”Sư Khổng Lồ”. Ở đây, chúng tôi dựa vào lời kể của nhân dân, khôi phục lại cái đoạn bị cắt, tách riêng truyện Khổng Lồ đúc chuông ra, vì nhận thấy nó có một kết cấu độc lập. Nhưng chúng tôi vẫn không làm sai nguyên ý của truyện thường kể.
Về chỗ nồi cơm thần diệu ăn mãi không hết, chúng ta còn có truyện Sự tích Bồ-tát Chân Nhân.Bồ-tát ở làng Bối Khê, huyện Thanh Oai(Hà Đông), cũng có những phép gần như phép Nguyễn Minh Không đãi khách.Bồ-tát Chân Nhân thuê một trăm người thợ dựng ngôi chùa lớn ớ núi Tiên Lữ.Mỗi bữa chỉ thổi một niêu con cơm.Lúc đầu đám thợ trông thấy đều bật cười.Bồ-tát bảo:
-Khi cơm chín cứ bới ra rá để tôi còn về quê lấy tương cà làm thức ăn.
Thợ lại càng cười, cho là nhà sư chỉ nói bỡn, vì quê của Bồ-tát cách đấy gần một ngày đường .Nhưng chỉ trong nháy mắt,Bồ-tát Chân Nhân từ chùa núi Tiên Lữ sang chợ Bảo Đà làng Đan Vị lấy hai lọ tương, một lọ muối, rồi từ chợ lại trở về chùa.Lúc về cơm vừa chín tới.Bồ-tát gọi thợ lại ăn, nhưng họ ăn không hết một niêu cơm, vì hễ bới lưng lại đầy.[45]
Cổ tích và Phật thoại Ấn Độ cũng có truyện Du-đích-thi-ra nhận được của Mặt trời một nồi đồng lấy ra rau,thịt,cá vô tận; và Mác-nu-da vâng lệnh Phật sai đi quyên giáo không được gì, bỗng chốc thấy xuất hiện năm trăm bát đầy thức ăn;lại nhờ phépPhật mà hiện ra trước một nghìn vị Tỳ-khưu, mỗi người một bát đầy thức ăn,v.v…[46]
Về chỗ Từ Đạo Hạnh học phép và kiếp sau của ông hóa hổ,sách Lĩnh ngoại u linh lục chép:lúc bấy giờ có Phật Bà giáng xuống chùa Tây Phương ở Sơn tây dạy đạo.Từ cùng hai ông bạn rủ nhau lên đó học phép của Phật bà.Hai ông kia sáng dạ nên buổi nào cũng được về trước, còn Từ tối dạ cứ phải ở lại sau.Một hôm, thấy Từ ngồi khóc,Phật bà hỏi duyên cớ, ông nói vì ở lại sau nên sinh xấu hổ.Phật bà thương hại,cho một cái gậy để có thể theo kịp hai ông bạn.Nhờ đó ông vượt trước họ một đoạn đường. Đến cửa chùa làng La Cả, ông ẩn vào một bụi rậm. Đợi hai bạn đến, Từ giả làm hổ gầm lên một tiếng đề lòe chơi.Không ngờ, một trong hai ông biết Từ bỡn cợt, bèn đọc câu “phát nguyện”rằng:
Phật cho như ý sở cầu,
Muốn làm loài ấy, kiếp sau được làm.
Kiếp thứ hai,Từ được giáng sinh cửa đế vương, tức là vua Lý Thần Tông, đang làm vua tự nhiên hóa hổ.
Đến kiếp thứ ba, Từ lại được giáng sinh vào cửa đế vương, tức là vua Lê Thần Tông, cũng đang làm vua tự nhiên hóa hổ.Triều đình nhờ đức Thượng sư nội đạo tràng ở Thanh Hóa về chữa.Lúc ấy, dân có dịch tễ. Thượng sư bận bèn sai môn đồ mình đi thay với phép “trịch hùng trì chú”.Sau khi thiết lập đàn tràng, môn đồ ra phép “hai tay đấm vào ngực, hai chân giẫm xuống đất, đọc chú ba lần”.Tự nhiên vua thấy nhẹ nhõm, lông lá rụng hết;diện mạo lại đẹp đẽ như xưa.[47]
Khảo dị 2:
Xưa, Đạo Hạnh họ Từ, tên là Lộ, cha là Vinh theo học đạo Phật, làm chức Đô sát ngạch tăng quan đời Lý,thường đến chơi làng An Lãng (làng Láng gần hà Nội bây giờ)lấy người con gái họ Tăng tên là Loan dựng nhà ở xóm Nam làng ấy.Nhà ở được kiểu đất quý, sinh ra được Từ Đạo Hạnh có khí cốt tiên Phật, lúc còn trẻ hay chơi bời phóng túng, nhưng có chí lớn, cách cử động ít người lường biết.
Đạo Hạnh thường kế bạn với một nhà nho tên là Phi Sinh, một đạo sĩ tên là Lê Toàn Nghĩa và một người đàn hát tên là Phan Ất, đêm thì chăm đọc sách, ngày thì đánh cầu, thổi sáo, đánh bạc làm vui, thường bị cha mắng là đồ rông rài.Một đêm, cha lẻn vào dòm trong buồng, thấy bên ngọn đèn tàn, sách vở la liệt, Đạo Hạnh ngồi dựa án ngủ gật, tay vẫn cầm quyển sách. Từ đấy biết con chăm học,cha không lấy làm lo.Sau Đạo Hạnh thi khoa Bạch Liên, đỗ thứ nhất, nhưng không chịu ra làm quan, chỉ ngày đêm nghỉ cách phục thù cho cha.Nguyên trước đây, cha dùng pháp thuật vi phạm vào nhà ông Diên Thành Hầu.Nhà Hầu có vị Pháp sư tên là Đại Diên dùng bùa trấn áp, giết chết vứt xác xuống sông Tô Lịch.Xác trôi đến cầu Tây Dương, trước nhà Diên Thành Hầu, dừng lại đấy, suốt ngày không trôi đi.Hầu sợ báo cho Đại Diên biết.Diên tớinơi nói to lên rằng:
-Người tu hành không được giận mãn kiếp, nên biết:sống chỉ là một trường đùa bỡn, chết mới thành đạo Bồ đề!
Nói dứt lời, cái xác liền trôi đi, đến xứ Hàm Rồng thuộc xứ Nhân Mục thì dừng lại, người làng thấy thiêng mới dựng lăng, miếu và đắp tượng để thờ, hàng năm cứ đến ngày 19 tháng giêng là giỗ, tại đền có tế lễ.Còn mẹ, sau mất táng tại chùa Ba Lăng ở xã Thượng An, chùa Ba Lăng này tức là chùa Hoa Lăng, thờ hai vị Thánh phụ và Thánh mẫu.
Đạo Hạnh ở nhà thờ tự cha mẹ, lúc nàocũng nghĩ đến sự phục thù mà chưa có kế gì. Một hôm rình Đại Diên đi ra đường, Đạo Hạnh toan dùng pháp thuật cầm gậy xông đến đánh, chợt nghe trên không có tiếng thét:
-Không được!Thôi ngay đi!
Đạo Hạnh liền bỏ gậy trở về, trong lòng buồn bực đau xót, định sang nước Ấn Độ ở Tây Thiên học cho được thuật lạ về đánh Đại Diên. Đạo Hạnh bèn đi cùng với Minh Không và Giác Hải cùng đi, đến nước Sĩ Man, thấy đường đi rất hiểm trở nên định quay về.Bỗng thấy một cụ già chèo chiếc thuyền nhỏ đến bến sông, ba người cùng đến hỏi cụ già rằng:
-Thưa cũ, đây sang Tây Thiên còn xa không?
Cụ già đáp:
-Đường núi hiểm hóc đi bộ không được, tôi có chiếc thuyền này, có thể chở giúp các ông sang, lại có cây gậy cho các ông cầm, cứ chỉ thẳng về phía Tây thì sẽ đến ngay.
Nói xong, cụ già đọc câu kệ rằng:
Đạo lý đương nhiên lộ cộng hành,
Đa công viễn học, chí thành danh.
Uông dương vạn phái, hà lao thiệp.
Chi nhật Hoàng Giang đổ Thánh sinh[48]
Đọc vừa dứt câu kệ, thì thuyền đã ghé bến Tây Thiên, phép thần thông thật là linh thiêng lắm vậy. Đạo Hạnh ở giữ thuyền,Giác Hải, Minh Không lên bờ học được phép thiêng, hai người liền trở về nước. ĐạoHạnh giữ thuyền tới ba ngày không thấy tin tức hai bạn, tự nhiên bỗng thấy một bà cụ đi đến. Đạo Hạnh vái chào rồi hỏi:
-Cụ có thấy hai người lên học đạo không?
Bà cụ hỏi:
-Hai người đó đã học được nhiều phép thiêng của ta và trở về nước rồi!
Đạo Hạnh bèn vái lạy và kể rõ cho bà cụ biết:Ba người cùng đi học đạo, thực đáng buồn vì hai người nỡ bỏ mình về trước! Bà cụ nghe nói,liền sai Đạo Hạnh gánh hai thùng nước về nhà, rồi bà cụ dạy cho mọi phép thiêng, lại trao cho phép rút đất và lời thần chú Đà-la-ni. Đạo Hạnh giận hai bạn phụ mình,mới đọc một câu thần chú,Minh Không và Giác Hải đang đi đường, bị lời thần chú đau bụng quá, phải ngồi nghỉ. Đạo Hạnh lại dùng phép rút đất, tiến về phía trước, ẩn vào bụi rậm ở xã Ngải Cầu thuộc huyện Từ Liêm,hóa hình làm con hổ gầm thét xông ra coi rất ghê sợ.Hai người bèn nhìn nhau lấy làm kinh lạ.Bề ngoài tuy lấy làm lạ, nhưng vì đã có phép thiêng , sáng suốt, phân biệt thực hư, cho nên biết ngay là Đạo Hạnh hóa mình,mới nói rằng:
-Ngươi muốn biết kiếp sau, ta sẽ nói cho mà nghe!
Đạo Hạnh nghe nói tỉnh ngộ, liền hiện lại nguyên hình rồi bảo hai bạn rằng:
-Chúng ta cùng học đạo của đức Thế Tôn, nhưng tôi còn vướng trần duyên, sau này sẽ lại ra thế gian ở ngôi nhân chủ, lúc ấy sẽ không tránh khỏi bệnh nạn,các anh có duyên với ta xin cứu cho.
Thế rồi bỏ mối giận cũ, ba người cùng truyền phép thuật:xuống nước,lên không; bắt rồng, hổ phải hàng phục;xuất quỷ nhập thần không ai lường được. Đạo Hạnh được nhường làm anh cả, rồi đến Minh Không,còn Giác Hải là em thứ ba.Chỗ gặp nhau nay gọi là cầu Báo.
Minh Không, Giác Hải về chùa Giao Thủy, Đạo Hạnh thì lên tu luyện ở chùa Thiên Phúc, thuộc huyện Thạch Thất, Sơn Tây.Trước chùa có hai cây thông cổ người ta thường gọi là cây “rồng”. Đạo Hạnh hàng ngày trông vào cây mà đọc chú “Đại bi tâm Đà ni la”, đọc tới ức vạn lần, cây thông rơi dần từng cành, rồi cả hai cây đều mất hết.Biết rằng đức Quan Thế Âm đã ứng hộ lời chú, Đạo Hạnh càng ra tâm tụng kinh đọc chú, cầu cho thấu đến Thiên đường.Một hôm thấy vị thần đến trước mặt, đứng lơ lửng không sát đất, Đạo Hạnh hỏi:
-Vị thần nào đó?
Thần thưa rằng:
-Đệ tử là Tứ Trấn Thiên Vương,cảm vì nhà thầy có công đức tụng niệm, cho nên lại hầu để thầy sai bảo.
Đạo Hạnh xét biết mình đã thông cả lục trí,có thể báo được thù cha, mới về ở làng An Lãng.Một buổi ra cầu An Quyết ở sông Tô Lịch, ném cây gậy xuống sông, gậy đứng dựng trên mặt nước chạy ngược dòng như bay, đến cầu Tây Dương thì dừng lại. Đạo Hạnh mừng nói: “ Phép của ta hơn hẳn Đại Diên rồi!” Liền xông vào nhà Đại Diên, Diên trông thấy, bảo rằng:
-Người không nhớ việc trước à?
Đạo Hạnh trông lên không, chẳng thấy gì, mới đánh chết Đại Diên, đem xác quăng xuống sông Tô Lịch để trả lại thù trước.
Thù đã trả xong, mối tục lụy đã lắng, Đạo Hạnh mới đi chơi khắp các nơi rừng sâu để cầu ấn quyết.Nghe nói Cao tăng Trí Huyền ở Thái Bình tu rất đắc đạo, mới đích thân yết kiến, hỏi về “chân tâm”, đọc câu kệ rằng:
Cửu hỗn phàm trần vị thức câm,
Bất tri hà xứ thị chân tâm.
Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện,
Liễu kiến như như, đoạn khổ tầm.[49]
Trí Huyền cũng đọc mấy câu kệ đáp lại:
Bí quyết chân truyền trị vạn câm,
Cá trung mãn mục thị thiền tâm.
Hà sa cảnh giới ưng hưu thoại
Bất tất Bồ đề cách vạn tầm.[50]
Đạo Hạnh chưa hiểu được rõ,mới sang chùa Pháp Vân hỏi sư Sùng Phạm.
Phạm đáp:
-Cái gì mà chẳng là chân tâm!
Đạo Hạnh nghe hiểu luôn,mới trở về chùa Thiên Phúc,huyện Thạch Thất tu đạo và luyện phép như trước.Từ đó pháp thuật ngày càng cao, lòng thiện ngày càng chín, khiến được các chim, các thú đến đầy trước mặt để sai bảo.Dân ở quanh vùng ấy hễ có bệnh tật đến xin bùa dấu đều được khỏi luôn, lấy đạo giúp người, mọi người đều được nhờ ơn.
Bấy giờ vua Lý Nhân Tông (1072-1127) không có con trai, cầu tự mãi cũng không được, em Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu,bèn mời Đạo Hạnh đến nhà cầu tự cho mình, để sau con mình sẽ được lập làm Thái Tử. Đạo Hạnh xin đầu thai để tạ ơn.Bấy giờ Sùng Hiền Hầu phu nhân đang tắm trong phòng, bỗng thấy Đạo Hạnh hiện hình ở trong thùng nước.Phu nhân kinh hãi nói với Hầu.Hầu đã biết ý, mật bảo phu nhân rằng:
-Thấy hình ở trong thùng nước tức là chân nhân đã nhập thai rồi, đừng sợ!
Thế rồi phu nhân có mang. Đạo hạnh khi từ biệt ra về có dặn rằng:
-Đến ngày phu nhân sinh đẻ,xin báo cho biết ngay.
Đến ngày sinh,phu nhân khó đẻ.Sùng Hiền Hầu nói:
-Phải kíp báo cho Cao Tăng biết.
Đạo Hạnh được tin, họp các đồ đệ,bảo rằng:
-Ta chưa hết nhân duyên với đời,lại phải thác sinh làm vua ở nhân gian, khi nào chết về làm chủ”Tam thập tam thiên”, nếu thấy chân thân của ta bị nát hết, bấy giờ ta mới vào cõi “bất sinh,bất diệt”.
Các đồ đệ đều cảm tiếc ứa nước mắt khóc, Đạo Hạnh đọc kệ rằng:
Thâm thu bất báo nhạn lai qui
Di sử nhân gian động phát bi
Trứ tích, thời nhân hưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.[51]
Đọc xong, lên động tiên, đập đầu vào vách đá, nện chân lên bàn đá rồi hóa.Nay vết đầu và vết chân trên đá vẫn còn in.
Đó là ngày mồng 7 tháng 3 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112), Đạo Hạnh từ cõi Nát bàn về cõi đời thác sinh làm con trai Sùng Hiền Hầu, không cần nuôi mà chóng lớn, không cần học mà thông suốt, người đẹp và có tài vô song.Vua Lý Nhân Tông đem vào trong cung nuôi dạy, rồi lập làm Hoàng Thái Tử. Đến khi Nhân Tông mất,Thái Tử lên nối ngôi, tức là vua Thần Tông.
Năm Bính Thìn(1136),Thần Tông đã 21 tuổi, bỗng phát bệnh ,mình mọc đầy lông, biến hình như con hổ.Các danh sư trong nước đến chữa rất nhiều, bệnh vẫn không khỏi.Minh Không và Giác Hải nghe tin biết là đúng với lời trước, liền đặt ra câu ca dao cho trẻ con hát: “ Muốn chữa Lý cửu trùng, phải đi tìm Nguyễn Minh Không”. Câu hát truyền đi, triều đình nghe được, mới sai sứ đến chùa Giao Thủy đón Minh Không về kinh đô chữa bệnh.Minh Không và Giác Hải thổi một niêu cơm rất nhỏ mời quan quân ăn. Quan quân rất đông người mà ăn mãi không sao hết. Đoạn Minh Không và Giác Hải cùng với sứ giả xuống thuyền.Minh Không bảo quan quân hãy tạm nằm nghỉ, đợi sáng nước triều lên hãy cho thuyền đi.Ai nấy nằm ngủ yên giấc,hai sư dùng phép làm cho thuyền không cần chèo lái mà đi nhẹ như tên, chốc lát đã đến bến kinh đô.Hai sư đánh thức mọi người dậy, thì trông lên đã thấy Tháp Báo Thiên rồi!Mọi người đều rất kính phục.
Sứ giả mời hai sư vào trong điện, các sư trong nước ngồi đó rất đông, thấy hai sư hình dáng cục mịch, ăn mặc cũ kỹ, nên coi thường không ai đứng dậy.Hai sư bèn lấy một cái thanh sắt ở trong túi ra dài ước 5 tấc đóng lên cột điện,lấy tay vỗ lên cái đanh cắm rất sâu vào gỗ.Hai sư dõng dạc cất tiếng nói:
-Ai nhổ được cái đanh này ra thì mới chữa được bệnh vua.
Mọi người lần lượt hết sức nhổ đanh không được.Minh Không lấy hai ngón tay trái nhổ đanh ra dễ như chơi.Bây giờ ai nấy đều phục Minh Không có phép lạ.
Minh Không sai lấy một cái vạc to, đổ 12 hủ dầu và bỏ một trăm cái đanh vào vạc, lại sai lấy một cành cây hòe,rồi xin rước vua ra chỗ đó.Minh Không nhường cho Giác Hải đốt lửa đun vạc, lửa cháy rất mạnh, dầu sôi lên sùng sục.Minh Không nhúng tay vào trong vạc dầu lấy đủ 100 cái đanh ra.Giác Hải nhường Minh Không làm phép,Minh Không lấy cành hòe nhúng xuống dầu, vẩy khắp mình vua rồi nói lớn lên rằng:
-Đã làm đến Thiên tử sao lại còn bệnh thế?
Dầu vẩy đến đâu, lông trên mình vua biến hết đến đấy,vuốt ở chân tay cũng rụng đi tiệt, bệnh vua liền khỏi,thân thể lại tươi đẹp và khoan khoái như trước.
Sau khi vua mất, chùa Thiên Phúc hiện lên khí thiêng lạ thường, ai trông thấy cũng phải kinh sợ. Địa phương tâu lên,vua Anh Tông(con vua Thần Tông) liền sai sứ lên tế, tôn phong làm “Thượng đẳng tối linh thần”.
Khi Đạo Hạnh hóa,xác còn ở trong động, trải qua hàng tháng vẫn thơm tho, người làng lấy làm lạ, để vào trong cái khám để thờ. Đến thời Vĩnh Lạc (1403-1424) nhà Minh, quân Minh sang ta, đến chỗ này thấy mùi thơm nức,tìm đến trong khám thấy Chân nhân một vị đạo nhân, nét mặt tươi như lúc còn sống.Người Minh cho là “Tiên’,mới rước sang chùa Hương Sơn làm phép hỏa táng.Lửa đốt đến bảy đêm ngày vẫn không cháy đến “Chân thân”, người Minh định bỏ, đến đêm mộng thấy người đến bảo:
-Chân thân ta trải qua đời Lý tới nay không nát, phép thiêng không phải là ngẫu nhiên.Nay các người muốn hỏa táng, phải lấy gỗ rào mộ mới mà đốt thì mới được.
Người Minh làm theo như thế, quả nhiên đốt được cháy, bèn nhặt lấy tro đắp thành tượng, bỏ vào khám cũ để thờ ở bên trái chùa Thiên Phúc.
Trong thời Quang Thuận (1460-1469), đời vua Lê Thánh Tông, Trường Lạc Hoàng hậu sai Thái Úy Trinh quốc Công ( Nguyễn Đức Trinh?) lên động chùa Thiên Phúc cầu tự. Khi làm lễ, có một phiến đá ở ngoài động bay vào, Trinh Quốc Công mang về trình Hoàng hậu. Ít bữa sau, Hoàng hậu mộng thấy rồng vàng vào bên sườn, rồi có mang, sinh ra vua Lê Hiến Tông.Nhân thế mới dựng am “ Hiển thụy” ở chùa Thiên Phúc, có khắc bia để ghi.Từ đó, chùa càng nổi tiếng thiêng, nhà nước và dân gian cầu đảo việc gì cũng được linh ứng.Tới nay, hương khói không lúc nào dứt.
Sự tích Thiền sư Đạo hạnh kết thúc bằng việc nhà sư chết đi, đầu thai làm con Sùng Hiền Hầu để về sau nối ngôi vua, trở thành Lý Thần Tông. Việc Lý Thần Tông là hậu thân của Từ Đạo Hạnh hiện còn thấy qua việc bố trí tượng thờ của Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông ở chùa Thầy (Quốc Oai, Hà tây) và chùa Láng (Quận Đống Đa, Hà Nội). Đó tất nhiên là chuyện bịa, phản ánh đầu óc mê tín dị đoan của người xưa.Nhưng đối với chúng ta, thì điều đó có nghĩa là Tăng sĩ đời Lý không những tham gia vào việc chính trị của Nhà nước mà còn can thiệp vào nội bộ hoàng gia:những việc chữa bệnh cho vua, cầu tự, làm cho Hoàng hậu có con, lập Hoàng Thái tử,v.v….đều có sự tham gia của các nhà sư.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một nhân vật được miêu tả với những nét kỳ dị hoang đường. Thiền Uyển Tập Anh kể về việc nhà sư báo thù cho cha như sau…” Cha nhà sư dùng pháp thuật làm phật ý Diên Thành Hầu,Hầu sai Thiền sư Đại Diên dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch.Xác trôi tới cầu An Quyết, đến trước cửa nhà Diên Thành Hầu, hốt nhiên đứng dựng lên, trỏ vào nhà, ở lại đấy suốt một ngày không trôi đi. Diên Thành Hầu sợ hãi, nói với Đại Diên. Đại Diên đến và hét lên: “ Người đi tu không được phép giận quá một ngày”. Dứt lời thì thây đổ xuống mà trôi đi. Lộ tìm cách báo thù cho cha, nhưng chưa nghĩ ra kế gì.Một hôm rình Đại Diên ra ngoài, định đánh, chợt nghe trên không trung có tiếng thét: “Dừng lại!” Lộ sợ hãi, quẳng gậy mà chạy.Lộ muốn sang nước Ấn Độ cầu phép lạ để đánh Diên, đường đi qua đất rợ Răng Vàng, thấy hiểm trở quá bèn quay về, ở ẩn tại núi Từ Sơn, hàng ngày đọc kinh Đại bi-tâm-đà-la-ni, đọc trọn 18.000lần.Một hôm, thấy có vị thần đến trước mặt, thưa rằng: “Kẻ đệ tử là Tứ trấn Thiên vương, cảm phục công đức trì kinh của thầy, nên lại đây theo hầu để thầy sai khiến”. Lộ biết rằng đạo pháp đã thành, thù cha có thể rửa, bèn đi đến cầu An Quyết, ném thử cây gậy xuống dòng nước chảy xiết. Gậy trôi ngược dòng nước tới cầu Tây Dương thì dừng lại,Lộ mừng mà nói rằng: “Phép của ta thắng được rồi!”.Bèn đến thẳng chỗ Diên ở, Diên thấy mặt nói rằng: “Mày không nhớ việc ngày trước hay sao?”.Lộ nhìn lên không trung, không thấy gì, bèn đánh liền,Diên đau thành bệnh mà chết.Từ đó, thù xưa đã rửa, tục lự nguôi dần, mới du ngoạn các miền rừng rú để tìm ấn chứng…Phép lực ngày càng mạnh, duyên thiền ngày càng kết.Các giống rắn núi, thú rừng đều đến quanh mình chịu sự dạy dỗ.Lộ đốt ngón tay cầu đảo, chú phép lạ vào nước trị bệnh, không điều gì không ứng nghiệm…”.
( Văn học VN-Đinh Gia Khánh chủ biên-NXB.GD 2001)
Khảo dị 3:
Sách Thiền Uyển Tập Anh kể rằng:Sư ở chùa Thiên Phúc[52],họ Từ ,tên Lộ.Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan Đô án, thường đi học tại làng An Lãng.Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ.Sư là con nàng Tăng thị vậy.
Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp,có chí lớn, lại có hàng động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà Nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Đêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui.Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.
Một hôm ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn.Từ đấy ông cụ không lo nữa.
Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch Liên. Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu, Hầu nhờ Pháp sư Đại Diên dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch.Xác trôi đến cầu Quyết là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi.Hầu sợ, đi báo cho Đại Diên, Đại Diên đến nơi đọc một câu kệ: “Tăng giận không cách đêm”.Đọc xong, xác đáp lại trôi đi.
Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm Sư rình Diên đi ra khỏi nhà, muốn đánhlén, chợt nghe trên không có tiếng la: “Đừng! Đừng!”.Sư sợ hãi vứt cây mà chạy.Sư muốn sang Ấn Độ, tìm học phép linh dị để chống lại Đại Diên. Đi đến xứ Mọi răng vàng, đường sá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Đại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư thất thần nhân đến trước mặt mình nói: “Đệ tử là Tứ Trấn Thiên Vương, cảm động đức trì chú của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo”.Sư biết đạo nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo”. Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha mới đến bên Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây Dương dừng lại.Sư mừng nói: “ Pháp ta thắng rồi!”.Bèn đến thẳng chỗ Đại Diên, Diên thấy nói:
“Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?”
Sư ngửa mặt nhìn lên trời, niệm tục tiêu tan.Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái Bình, Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ:
“Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng
Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân
Nguyện xin chỉ rõ bày phưong tiện
Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm”.
Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:
“Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu
Ở trong tỏ rõ ý thiền nao
Bồ-đề đạo đó hà sa cõi
Muốn tới còn xa mấy vạn sào”.
Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp Vân hỏi: “ Thế nào là chân tâm?”.
Phạm hỏi lại: “Cái gì chẳng phải là chân tâm?”.
Sư tỉnh ngộ nói: “ Làm thế nào bảo đảm?”.
Phạm đáp: “Đói ăn, khát uống”.
Sư lễ tạ, từ giã ra đi, Từ đấy pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi, thú rừng,họp nhau đến chịu thuần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm”.
Có vị Tăng hỏi: “Đi, đứng ,nằm ,ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?”.
Sư dạy bài kệ:
Tạo có,mảy may có
Làm không, tất cả không,
Có không như trăng nước,
Chớ vướng có không không”.
Lại bảo:
“Trời trăng đỉnh núi cao
Người người mất hết châu
Kẻ giàu có ngựa tốt
Đi bộ chẳng cỡi câu.”
Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng.Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112), người phủ Thanh Hóa dâng sớ tâu rằng: “Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng là con đích của bệ hạ, tên là Giác Hoàng.Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết”.
Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa BáoThiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập thành Hoàng Thái tử.Quần thần hết sức can gián, cho là không được, và nói: “Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có thể lập”. Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai.
Sư nghe chuyện, riêng nóirằng: “Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm.Ta há nhẫn tâm ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối Chánh Pháp sao!”.
Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo trên mái diềm.Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh , nói với mọi người: “Đầy khắp cả nước đều đã có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh,mà sợ không có đường vào”.
Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng Thánh, hợp quần thần nghị tội.Khi Sùng Hiền Hầu đi quang qua, Sư kêu van: “ Xin hết sức cứu bần tăng một phen,may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn”.
Hầu nhận lời. Đến lúc hội nghị, quần thần đều nói: “ Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liều lĩnh dám làm chú giải, nên kết án tử hình để tạ lòng thiên hạ.”
Hầu chậm rãi thưa: “ Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không làm hại được.Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy.Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ thì đừng cho y thác sinh”.
Vua xá tội.
Sư đến nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư ép nhìn phu nhân.Phu nhân nổi giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu.Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì.Phu nhân từ đó biết mình có thai.Sư dặn Hầu rằng: “ Khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết”.
Đến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay quần áo, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: “ Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm Quốc vương. Đến khi thọ chung, lại làm Thiên tử cõi trời Tam thập tam.Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết Bàn, không ở cõi sinh diệt nữa”.
Đồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ.Sư nói bài kệ rằng:
“Thu sang không báo nhạn về đây
Cười nhạt người đời thương xót thay
Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái
Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay”.
Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn.
(Thiền Uyển Tập Anh, Lê Mạnh Thát dịch.NXB,TPHCM-1999)

25.SỰ TÍCH ĐỘNG TỪ THỨC

Vào đời nhà Trần ở châu Ái có một anh chàng trẻ tuổi tên là Từ Thức.Chàng vốn con nhà quan, năm 20 tuổi, nhờ học giỏi,thi đỗ cao, chàng được bổ một chân tri huyện ở một huyện vùng Bắc.Khác với bọn quan lại khác, Từ Thức vốn là người phóng khoáng, không chịu ràng buộc vào khuôn phép.Chàng lại không thích những chuyện nịnh trên, nạt dưới, mà chỉ thích uống rượu,ngâm thơ, và đi chơi ngắm cảnh. Ở gần vùng Từ Thức trị nhậm có một ngôi chùa lớn.Trước sân và xung quanh vườn trồng toàn một loại cây mẫu đơn.Mỗi năm vào khoảng tháng giêng là mùa hoa nở rộ, cũng là kỳ cúng Phật.Nhân dịp đó, các thiện nam tín nữa các nơi đua nhau về chùa lễ Phật và ngắm hoa. Vì thế người ta cũng gọi là hội xem hoa hay là hội mẫu đơn.
Một năm, vào lỳ hội xem hoa,Từ Thức cũng có cái hứng đi hành hương ngắm cảnh.Để khỏi làm kinh động dân chúng, Từ thức cải trang thành một người học trò.Chàng cũng không cho mang lính hầu và cáng xa đi theo.Hồi này các chùa chiền được triều đình vị nể, nên có những người lợi dụng chùa chiền ỷ thế hoành hành.Để bảo vệ hoa, chùa này đặt ra một cái lệ, ai bẻ hoa hoặc là gãy cây sẽ bị phạt vạ một số tiền.Nếu không có tiền thì nhà chùa sẽ bắt làm công quả. Ngày hôm ấy có một cô gái đẹp đi xem, vô tình không biết lệ nhà chùa, thấy có hoa đẹp ở cạnh lối đi, bèn rón tay ngắt một bông.Thấy vậy, bọn thủ hộ trong chùa xông ra bắt giữ lại đòi tiền vạ.Cô gái thú thực là mình đi xem hội không mang tiền theo nên không biết lấy gì đền.Nghe nói thế, bọn thủ hội liền giữ cô lại để đòi tiền chuộc.
Vừa lúc ấy,Từ Thức tiến vào cổng chùa. Thấy một người con gái yếu ớt bị làm khó dễ. Từ Thức không ngăn được cơn giận dữ.Chàng sấn đến đòi thả cô gái.Bọn thủ hộ nhất định không cho và chỉ vào mặt chàng:
-Này, nếu không có đủ một quan tiền chuộc thì anh chớ có động đến côgái mà sinh chuyện rầy rà đấy.
Nghe chúng thách thức,cơn giận của Từ Thức bừng bừng bốc lên.Đã toan dùng đến chức vị của mình để trị bọn bất lương, nhưng rồi chàng lại kịp gạt đi vì chẳng muốn làm to chuyện. Không nghĩ ngợi, chàng cởi phăng chiếc áo ngoài vứt cho bọn thủ hộ để chúng trả tự do cho cô gái. Dây trói vừa cởi, cô gái ngỏ lời cảm tạ Từ Thức. Thấy nàng xinh đẹp lại bạo dạn, Từ Thức cũng muốn làm quen.Chàng hỏi:
Nhà nàng ở đâu?Tôi nghe giọng nói hình như không phải là người vùng này.
Cô gái đáp:
-Quê thiếp ở tận trong châu Ái huyện Tống Sơn…
Không ngờ người đẹp lại là người cùng quê,Từ Thức càng thêm niềm mở. Hai người men theo lối cổng chùa, vừa đi vừa ngỏ ít lời tâm sự.Trước khi từ giã, nàng còn không quên mời chàng đến chơi nhà nếu có dịp về thăm quê.
Vốn không ưa cái nghề roi vọt trị dân.Từ Thức thường bị bọn quan trên hạch tội.Một lần vì để vụ thuế chậm trễ, chàng bị viên an phủ gọi đến quở mắng nặng lời. Chàng than:
-Ta há vì mấy bó thóc mà chịu nhục như thế này ư!
Lúc trở về huyện lỵ,lập tức chàng cởi bỏ ấn tín treo ở trước mái công đường, rồi bỏ đi biệt.Chàng đi thẳng về quê thăm bố mẹ và bà con làng nước. Ở nhà được ít lâu, nhớ đến lời mời của cô gái trong hội xem hoa.Từ Thức liền cất công ra đi.Theo lời chỉ dẫn, chàng lặn lội tìm kiếm, nhưng bóng chim tăm cá mịt mù.Vùng Tống Sơn có bao nhiêu cảnh đẹp, chàng đều có để lại dấu chân và những bài ca vịnh, vậy mà chàng vẫn ân hận không gặp lại người đẹp năm xưa.Mặc dầu vậy, Từ Thức vẫn không nản lòng.
Một hôm trên đường đi tìm, từ sáng sớm, Từ Thức đã trèo lên núi cao nhìn ra giữa cửa Thần Phù.Tự nhiên trước mắt chàng hiện lên một hòn đảo trông y như một đóa hoa sen giữa vùng biển cả.Say sưa nhìn ngắm, chàng bèn dong buồm ra khơi.Chẳng bao lâu thuyền đã ghé đảo. Đang mải mê nhìn, chàng bỗng thấy ở sườn núi đá gần đó có một cửa hang khá rộng.Bèn vin cây rẽ cỏ tìm đến tận nơi.Vừa bước vào hang được một quãng thì bỗng dưng cửa hang tối sầm lại.Từ Thức vẫn cứ sờ soạng bước liều. Đi một đoạn nữa thình lình lại thấy có áng sáng.Trông ngược lên thấy núi cao chót vót, đá mọc lởm chởm.Khi leo lên đến đỉnh thì Từ Thức bỗng thấy cả một tòa nhà lộng lẫy hiện ra trước mặt.Chưa hết ngạc nhiên trước cảnh lạ,chàng bỗng thấy bóng hai người con gái nhỏ mặc áo xanh.Một người nói:
-Chú rễ mới nhà ta đã đến kia kìa!
Chàng hết sức bỡ ngỡ nhưng vẫn bạo dạn đi theo hai cô gái.Trên đường đầy hoa thơm cỏ lạ. Đi một chốc thì đến lâu đài.Vừa bước lên thềm, Từ Thức đã thấy một người đàn bà dáng quý phái ra đón.Bà tươi cười bảo chàng:
-Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu hang động ở cõi tiên.Từ lâu ta cai quản thế giới này.May mắn hôm nay lại được đón người trẻ tuổi phong nhã và chí tình.Thế nào,cảnh trí ở đây có làm cho du khách ưa thích không?
Thấy Từ Thức gật đầu, người đàn bà lại nói:
-Khoan đã.Để còn gặp một người quen cũ.
Đoạn,ra hiệu cho người hầu gái đi gọi. Chốc sau,một cô tiên từ trong hành lang bước ra, dáng thướt tha kiều diễm, mĩm cười chào chàng.Từ Thức nhìn kỹ thì ra đấy là cô gái bẻ hoa mẫu đơn năm nào.Chàng mừng rỡ nói to:
-Ô hay, tôi đi tìm nàng khắp nơi mà không thấy, không ngờ lại gặp ở đây!
Câu chuyện từ đấy trở nên thân mật đậm đà hơn .Bà chúa động nói:
-Em nó tên là Giáng Hương.Ngày trước đi xem hội mẫu đơn không may gặp rủi ro,nhờ có chàng tận tình cứu giúp.Âu đó cũng là duyên trời.Chàng đã có lòng cất công đi tìm, nay đến gặp nhau, hãy mở tiệc hoa để phỉ lòng khao khát.
Từ Thức thấy không có gì đẹp lòng hơn thế nữa.Lập tức đêm hôm ấy trong bữa tiệc tưng bừng có quần tiên hội tụ, hai người chính thức là lễ giao bôi.Khách tiên từ các động vui vẻ cạn chén chào mừng chàng rể mới đến nhập tịch làng tiên, và chúc tụng cuộc tình duyên tốt đẹp của hai người.
Ngày lại ngày nối nhau trôi qua.Từ Thức làm rể cõi tiên bấm đốt ngón tay đã được ba năm.Cuộc đời mới hoàn toàn khác với cảnh sống trần gian ngày trước.Cơm ăn áo mặc và mọi vật dụng cần thiết, chàng đều có sẵn, không thiếu một thứ gì.Sắc đẹp tuyệt vời, tính nết hiền dịu của Giáng Hương luôn luôn làm cho chàng thỏa dạ. Chàng lại được đi ngao du các động tiên, thơ ngâm vịnh làm ra thao thao bất tuyệt.tuy nhiên,dần dần Từ Thức lại thấy như thiếu một cái gì.Một hôm chàng tâm sự với Giáng Hương:
-Xa cha ngái mẹ đã lâu, muốn về thăm một chuyến có được chăng?
Thấy vợ ngần ngừ chàng nói thêm:
-Chỉ cho về gặp bà con xóm làng một lần chót, rồi tôi sẽ đến đây ở với mình mãi mãi.
Giáng Hương thủ thỉ khuyên dỗ chồng hãy bỏ cái ý nghĩ trở về vì cõi tục và cõi tiên là hai con đường cách biệt.Nhưng Giáng Hương càng khuyên bao nhiêu thì nỗi nhớ nhà của Từ Thức càng nặng bấy nhiêu.Thấy chồng tuy không đòi về nữa nhưng nét mặt ngày một héo hon, Giáng Hương đàng phải thưa với mẹ.Mẹ nàng thương hại:
Nói rồi cho người đẩy xe mây đến cho Từ Thức trở về.Chàng vội vã từ giã vợ và mẹ vợ, từ giã các bạn tiên, rồi bước lên xe.Chỉ trong chớp mắt, chàng đã thấy lại quê hương cũ.Các rặng núi, con sông, những lũy tre dưới mắt chàng vẫn không có gì khác xưa.Xe đặt chàng xuống giữa một bến sông , nơi mà ngày còn nhỏ chàng vẫn ra đấy tắm mát và bơi lội.Nhưng khi nhìn kỹ cảnh vật thì Từ Thức lấy làm ngờ ngợ.Mới ba năm mà nhà cửa, vườn tược làm sao đã khác.Hỏi một người đi đường, người ấy cho biết đúng tên của làng chôn nhau cắt rốn của mình.Nhưng khi hỏi đến bố mẹ và em gái thì ai cũng lắc đầu trả lời không biết.
Sau cùng, Từ Thức đem họ tên của mình hỏi thăm các cụ già trong làng, thì một người ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:
-Từ lúc còn nhỏ, tôi có nghe truyền lại rằng các cụ tổ năm đời nhà tôi có một cụ cũng tên họ như thế, trước làm quan huyện rồi treo ấn từ quan, một hôm đi chơi sa vào hang núi mất tích.Từ bấy đến nay dễ gần ba trăm năm.
Nghe kể chuyện, Từ Thức mới thấm thía lời nói của vợ.Chàng bùi ngùi đứng nhìn cây đa mình trồng đầu ngõ bây giờ đã thành cổ thụ, cây to hàng vầng,cành lá rườm rà, rễ buông từng chùm chi chít.Chàng thẩn thờ trước đám đông đang vây quanh mình.Sau cùng Từ Thức trở lại chỗ xe mây, thì không ngờ xe đã biến mất từ lúc nào.Buồn rầu vô hạn, chàng lại khăn gói lần mò đến cửa Thần Phù, định bụng tìm lại hang cũ dẫn đến động tiên nhưng mịt mù cây đá kín lối không thể tìm ra được nữa.Chàng đi, đi mãi,về sau không biết là đi đâu.Từ đấy người ta gọi là hang núi ở chỗ này là động Từ Thức.[53]

========================================

Phần 2

26.HUYỀN THOẠI VỀ LỜI SẤM KÝ TRÊN THÂN CÂY GẠO

Tương truyền rằng: Vào cuối đời Tiền Lê, ở hương Diên Uẩn,châu Cổ Pháp[1],một đêm mưa to gió lớn,cây gạo ở đình làng bị sét đánh chẻ làm đôi.Sáng hôm sau, người làng ra xem, thấy trong thân cây gạo có những dòng chữ Nho chi chít dọc thân cây, bèn đưa đến cho sư Vạn Hạnh xem.Sư Vạn Hạnh xem đi xem lại rồi đọc thành một bài thơ như sau:
Thụ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa Đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất nhân gian
Thiên hạ thái bình.
Mọi người nghe xong, nhìn nhau chẳng hiểu đầu đuôi điềm lạ ra sao,những vần vè đó nói lên cái gì.Sư Vạn Hạnh liền giảng giải rành rẽ:
-Câu “Thụ căn diễu diễu”, chữ “căn” có nghĩa là gốc, gốc tức là Vua.Chữ “yểu” đồng âm với chữ “diễu”,nên đọc là chữ “diễu”.Câu “Mộc biểu thanh thanh”,chữ “biểu” là ngọn,ngọn tức là bề tôi, chữ “thanh” cũng đồng âm với chữ “thanh”, có nghĩa là thịnh. “Hòa đao mộc”là chiết tự của chữ “Lê, ở đây chỉ họ Lê.“Thập bát tử là chiết tự của chữ “Lý”, ở đây chỉ họ Lý.“Đông a” là chiết tự của chữ “Trần”, ở đây chỉ họ Trần. “Nhập địa” là ám chỉ người phương Bắc sẽ vào cướp nước ta.Câu “Dị mộc tái sinh”, có nghĩa là họ Lê khác lại nổi dậy.Câu “Chấn cung kiến nhật” thì “chấn” là phương đông, “ kiến” là mọc ra, “nhật”là mặt trời, chỉ Thiên tử, tức là vua.Câu “Đoài cung ẩn tinh”, thì “đoài”là phương tây, “ẩn” có nghĩa là lặn, “tinh”là sao, chỉ thứ nhân.Mấy câu này ý nói: Vua thì non yếu, tôi thì cường thịnh, họ Lê mất thì họ lý nổi lên.Thiên Tử ở phương đông mọc ra, thì thứ nhân ở phương tây khắc lặn.Trải qua sáu ,bảy năm thì thiên hạ thái bình.
Giảng giải từng câu, từng chữ xong, sư Vạn Hạnh nói: Đây là một bài sấm ký,tức là lời thiên định, cả bài dịch nghĩa như sau:
Gốc cây thăm thẳm.
Ngọn cây xanh xanh.
Cây hoa đào rụng.
Mười tám hạt thành.
Cành đông xuống đất.
Cành khác lại sinh.
Đông, mặt trời mọc.
Tây, sao náu hình.
Độ sáu,bảy năm.
Thiên hạ Thái Bình.
Nghe sư Vạn Hạnh giảng giải xong lại dịch thành cả bài thơ sấm ký, mọi người nhìn nhau kinh ngạc nói:
-Muôn sự đều do trời định đoạt cả. Điềm trời đã báo tất linh ứng.Biết trước thiên cơ hàng trăm năm thì âu chỉ có trời chứ còn ai nữa.Lại loạn lạc to!
Rồi chẳng ai bảo ai, mọi người đều thuộc làu bài sấm ký.Họ thì thào to nhỏ, không ái dám nói chỗ đông người.Ấy vậy mà chỉ mươi ngày sau,chỗ nào cũng líu lo tiếng trẻ đọc lời sấm ngữ trên. Chúng dung dăng dung dẻ đọc bi bô ngay cả ở giữa kinh đô Hoa Lư.Thấy vậy, người dân kinh kỳ bảo nhau:
-Trời đã ứng khẩu vào thần đồng rồi, tất cả sẽ có chuyện đấy!
Vua Lê Ngọa Triều nghe bài sấm ký đó nổi giận lôi đình,thét quân sĩ đi lùng sục khắp nơi để bắt kẻ nào đã gieo rắc lời thơ nghịch biến đó.Nhưng đều vô ích.
Quả nhiên mọi việc sau này,hàng mấy trăm năm cũng diễn ra đúng như lời bài sấm ký đó.
(Truyền thuyết Đinh Lê-Trương Đình Tưởng,NXB.VH-DT,2003)

27.SỰ TÍCH CÔNG CHÚA LIỄU HẠNH

Ngày xưa, ở trên thiên đình, có cô con gái Ngọc hoàng tên là Liễu Hạnh.Tính tình cô phóng túng, ngang bướng, không chịu theo khuôn phép nhà trời.Ngọc hoàng hết lòng dạy dỗ nhưng vô ích. Cô chứng nào tất ấy.Giận vì trong nhà có con gái hư không thể làm gì cho muôn họ, Ngọc hoàng quyết trị tội để cho con tu tỉnh.Nhân một lần Liễu Hạnh phạm lỗi, Ngọc hoàng bèn đày nàng xuống trần trong ba năm.Sau khi xuống trần, Liễu hạnh hóa thân thành một cô gái đẹp, dựng một cái quán ở chân núi Đèo Ngang. Đây là nơi rừng núi vắng vẻ, nhưng cũng là nơi con đường thiên lý Bắc vào Nam vắt qua, nên hàng ngày không bao giờ ngớt khách bộ hành đi lại.Từ xưa đến nay, vì sợ giặc cướp và thú dữ, khôngmột ai dám đến đó mở quán bán hàng.Vì vậy ngôi hàng độc nhất của Liễu Hạnh ngày nào cũng đông khách.Bất kỳ ai lên đèo xuống đèo, đã đi qua quán không thể nào không ghé lại nghỉ chân, huống hồ gì trong quán lại có cô gái tuyệt sắc.
Từ khi bị đày,Liễu hạnh vẫn chưa từ bỏ được nết cũ, khinh mạn và trêu chọc mọi người. Cho nên, hễ ai vào quán ăn bánh uống nước rồi tiếp tục ra đi thì không sao,nhưng hễ thấy chủ quán xinh đẹp mà giở thói cợt nhã, hoặc có ý cậy sức,cậy thế, cậy thần làm điều bất chính thì nàng quyết trị tội không tha:lúc trở về nếu không lăn ra chết cũng trở thành điên rồ ngây dại.
Hồi ấy thời vua Lê Thái Tổ trị vì thiên hạ.Tiếng đồn về cô gái đẹp, một mình mở quán ở Đèo Ngang không mấy chốc lan truyền rất rộng.khắp nơi bàn tán xôn xao.Người thì nói chủ quán là một cô gái võ nghệ hơn đời,mình nàng địch nổi trăm người một lúc.Kẻ thì cho là một ả giang hồ thành thạo, không những giỏi quyến dỗ trai tơ mà còn làm nhiều nghề không lương thiện khác.Cũng có người cho cô là một nàng tiên xuống thử người phàm trần.Mỗi người nói mộtcách,không biết thế nào mà tin.Nhưng tiếng đồn xa gần về cô chủ quán Đèo Ngang cũng thu hút vô số chàng trai vô công rồi nghề từ làng quê đến kẻ chợ.Hoàng tử con vua Lề bấy giờ đang trẻ người non dạ, nghe tin ấy bụng cũng say mê.Hoàng tử muốn sai ngay quân lính đi bắt người con gái kia về, nhưng vốn biết tình vua cha rất nghiêm khắc, làm náo động cả một phương là chuyện không bao giờ nhà vua cho phép.Vả lại nghe nói, người con gái ấy đã giỏi võ nghệ lại có nhiều phép thuật nên cũng ngần ngại.
Sau cùng, không ngăn nổi lòng ao ước và trí tò mò, một hôm, Hoàng tử giấu vua cha và Hoàng hậu, sắm sửa cáng xá hành lý, đóng vai một nhà quý tộc trẻ tuổi dẫn đoàn thị vệ cải trang ra đi. Sau hơn mười mấy ngày đường, Hoàng tử vượt qua sông Lam, rồi núi Nam Giới và sắp bước chân lên dãy đèo cao nhất.
Từ trên Đèo Ngang, Liễu Hạnh đã biết có Hoàng tử đến tìm mình, lại cũng biết đó là một chàng trai tầm thương, không có bản lĩnh gì, nhưng lại kiêu căng dật lạc.Để ngăn cản, nàng hoá phép thành một cây đào tiên mọc ở vệ đường, chỗ Hoàng tử đang nghỉ chân, trên cây có một quả chín mọng rất đẹp mắt. Hoàng tử vừa chợt thấy quả đào đã thèm rỏ giãi, bèn không đợi sai lính hầu, vội trèo lên cây ngắt xuống toan ăn.Quả đào đang thơm ngát và ngon lành, bỗng đâu khi sắp bỏ vào miệng thì trở nên mềm nhũn trên tay Hoàng tử, rồi thu nhỏ, cuối cùng mất biến không còn tý gì nữa.
-Quả đào này có ma!
Bọn thị vệ kinh hãi la lên và khuyên Hoàng tử hãy cẩn thận.Hoàng tử cũng cảm thấy rờn rợn.Nhưng vì vẫn không thể hiểu được ý nghĩa răn đe kín đáo của Liễu Hạnh, nên một chốc sau chàng lại giục phu cáng tiếp tục đi nhanh đến chân đèo.
Khi giáp mặt Liễu Hạnh, quả nhiên cả thầy lẫn tớ ai nấy đều thoảng thốt sững sờ.Chưa bao giờ Hoàng tử lại mê mẫn đến như thế.Người con gái này quả có nhan sắc kiều diễm đúng như lời đồn, trong cung đình vua cha dễ không mộtngười nào sánh kịp.Hoàng tử bèn kín đáo hạ lệnh cho cả đoàn dừng chân ở quán, lân la hết ăn đến uống, kéo dài đến tận chiều, rồi khi mặt trời gần lặn, bảo với chủ nhân:
-Đường xa trời tối.Chúng ta muốn nghỉ lại ở đây một đêm.Chẳng hay nữ chủ nhân có bằng lòng không?
Liễu Hạnh đã thừa rõ tâm tư của Hoàng tử, bèn, khước từ:
-Thưa Công tử, ở đây hàng quán chật chội, vả lại chỉ có mấy chị em là đàn bà con gái, Công tử và các vị ở lại sợ không tiện.Cách đây nửa dặm về phía Đông, có làng xóm.Các vị đến đó trú sẽ có sẵn nhà cửa và dân phu phục dịch.
-Chúng ta chỉ cần nghỉ ở đây thôi!Nữ chủ nhân đừng lo.Chỉ cần một chỗ trong quán để căng màn là đủ.Ngoài ra xin hứa là không làm gì phiền đến nữ chủ nhân cả.
-Nếu thế thì Công tử cứ tùy tiện.
Tối lại, mọi người ăn cơm xong sửa soạn đi ngủ.Những phu cáng và lính hầu trải chiếu nằm la liệt giữa sân.Riêng Hoàng tử đã có hai thị vệ căng màn trướng ở trong quán.Trời mùa hè mát mẻ, trăng gió hữu tình.Dưới ánh đèn dầu, Hoàng tử vẫn dựa cột trò chuyện với nữ chủ quán không rời.Liễu Hạnh vẫn chịu khó ngồi nán lại tiếp.Mỗi lời nói của nàng đều đẹp lòng khách, làm cho Hoàng tử càng thêm mê mẩn. Chàng quên mất lời hứa, đánh rơi cả vẻ đạo mạo lúc mới tới và bắt đầu lả lơi.Liễu Hạnh cự tuyệt và chạy vào buồng.Trong cơn si mê, Hoàng tử không cần gì thể diện nữa, bèn chạy theo vào.Có ngờ đâu, chỉ trong nháy mắt,Liễu Hạnh đã biến hình,phi thân lên núi,bắt một con khỉ cái về cho hóa thân thành một cô gái đẹp để đánh lừa Hoàng tử.Không thấy chủ quán đâu, nhưng thấy cô gái khác trong buồng.Hoàng tử liền cầm lấy tay dắt tới trước đèn.Nhìn thấy cô này cũng đẹp không kém gì cô chủ, Hoàng tử liền giở trò suồng sả.Nhưng bỗng chốc hắn rú lên một cách dễ sợ, làm cho bọn lính hầu đều tỉnh dậy.Trong tay Hoàng tử không phải là một cô gái nõn nà nữa mà là mộtcon khỉ cái, lông lá đầy người.Bọn lính hầu xông lại.Vụt một cái, con khỉ lại biến thành một con rắn mang hoa, từ trên người Hoàng tử vươn lên kèo nhà, há miệng phun lửa phì phì, rồi biến mất.Khi bọn lính hầu thắp được đèn lên thì Hoàng tử đã ngã vật giữa quán, nằm mê an mặt cắt không được giọt máu.
Nửa đêm hôm đó,người ta cắt ngựa trạm đưa Hoàng tử về kinh.Về đến cung, Hoàng tử trở nên mất trí, ai hỏi cũng không trả lời, chỉ cười nói một mình.Hoàng hậu và Phi tần hết sức lo sợ. Một mặt, Hoàng hậu cho giấu kín chuyện “vi hành”khinh suất đó, mặt khác, cho mời các bậc ngự y và thầy thuốc giỏi khắp kinh thành.Tuy nhiên, các danh sư được đón vào chữa chạy cho Hoàng tử đều lắc đầu bó tay. Trong cung càng thêm bối rối, hoảng hốt.Sau cùng, có người nói, nên vào xứ Thanh, xin bùa phép ở tám vị Kim Cang họa may mới khỏi.
Lại kể chuyện một ngàn năm về trước, Phật Bà Quan Âm một hôm hiện ra ở biển Đông,hóa phép thành hai cái túi:một nổi lên ở giữa biển, còn một ở trên núi Ói, làng An Đông, xứ Thanh.Sau một thời kỳ lâu dài, hai cái túi nở ra hai đóa hoa, và từ trong mỗi đóa hoa, hiện ra bốn vị Tướng, có phép biến hóa cực kỳ huyền diệu.Theo lệnh của Phật Bà, tám vị Tướng thân chinh đi tám phương đáng dẹp tà ma quỷ quái đang hoành hành quấy nhiễu.Dẹp xong, Phật Bà gọi họ trở về ở lại chỗ cũ.Người ta quen gọi là Bát Bộ Kim Cang.
Lập tức bọn thị vệ được lệnh Vua, vào Thanh Hóa để xin bùa phép của tám vị Kim cang.Nhờ có bùa phép,Hoàng tử dần dần khỏi bệnh.Sau khi bình phục, Hoàng tử cúi đầu nhận tội với Vua cha, kể lại cho Vua nghe tất cả câu chuyện gặp gỡ giữa mình với nữ chủ quán ở Đèo Ngang.Vua Thái Tổ hết sức giận dữ, vì Hoàng tử đã dám khinh thường lệnh Vua, bỏ phủ đi chơi, hãm mình vào cảnh thân tàn ma dại, nên xuống chiếu cất ngôi Hoàng tử mà lập con thứ lên thay. Nhưng Vua còn hết sức giận dữ vì ở trên bờ cõi mình trị vì lại có một người con gái dám khinh nhờn phép nước.Vua bèn ban lệnh, hỏi quan Trấn thủ xứ Nghệ về lai lịch nữ chủ quán Đèo Ngang.Sau một thời gian cho người cất công dò la, quan Trấn thủ gởi sớ về Tây bày tỏ.Trong sớ nói, đó là một nữ yêu không biết từ đâu đến, hay bắt hồn đàn ông con trai, nếu không có phép cả tài cao thì khó lòng khuất phục.
Vua lại ra lệnh cho mời các pháp sư, phù thủy cao tay đi trừ yêu.Nhưng chẳng bao lâu, họ đã trở về triều xin chịu tội, vì chẳng những không trị nổi yêu mà mọi phép thuật giở ra đều bị Liễu Hạnh thu mất cả.Vua lại đành phải cầu cứu tám vị Kim Cang.Nhận lời Vua, tám vị Kim Cang phi thân vào Đèo Ngang. Được tin chẳng lành, Liễu Hạnh ra ứng chiến.Cuộc chiến đấu dần dần trở nên dữ dội.Mới đầu tám vị Kim Cang làm một trận bão lớn, mưa dồn gió giật khủng khiếp, cây đổ khắp nơi, tàn vào vây lấy Đèo Ngang.Liễu Hạnh cũng hóa phép chống lại.Nàng làm cho cây rừng đã đổ lại đứng lên cùng với đất đá bay rào rào vào kẻ thù.Thấy Liễu Hạnh pháp thuật cao cường, tám vị Kim Cang hóa phép làm cho thú dữ tập họp nhe nanh múa vuốt xông vào hàng đàn toan cắn xé.Nhưng Liễu Hạnh đã kịp thời bay lên không trung rồi dùng phép tiêu diệt hết bầy mãnh thú.
Trận đánh diễn ra ba ngày ba đêm.Đèo Ngàng trở thành một bãi chiến trường rung rợn,mọi phép thuật của hai bên lần lượt giở ra mà chưa phân thắng phụ.Về sau tám vị Kim Cang biết mình bất lực, bèn bay lên trời cầu khẫn Phật Bà.Phật Bà ném cho họ một cái túi.Quả nhiên cuối cùng Liễu Hạnh sa vào túi của Phật Bà.Tám vị Kim Cang mang túi về kinh báo tiệp.Vua lập tức ra sân diện tra hỏi:
-Ngươi là ai?
-Tâu Bệ hạ, là con Ngọc Hoàng bị đày xuống cõi trần,lấy vùng Đèo Ngang làm nơi trú ngụ.
-Là con Ngọc Hoàng sao lại dám phá phách dân sự và làm hại Hoàng tử con ta?
-Việc trừng trị bọn trai chòng ghẹo hi nữ, ăn hiếp người cô đơn là tuân theo phép nước,không phải là phạm phép nước.
Thấy Liễu Hạnh nói là con gái Ngọc Hoàng, lại thấy nàng đối đáp khôn ngoan, Vua đổi giận làm vui.Cho nên sau cuộc thẩm vấn, Vua hạ lệnh tha bỗng, chỉ khuyên nàng đừng gây náo động và tàn hại dân lành.
Ít lâu sau, Liễu Hạnh sinh một đứa con trai, mỗi bàn tay sáu ngón.Nàng mang con đến ngôi chùa trên núi Hồng Lĩnh gửi cho một nhà sư nuôi dạy và dặn nhà sư hãy giúp cho con mình được lừng danh trong nước.Rồi đó, đủ ba năm, Liễu Hạnh trở về trời.
Nhưng không bao lâu, Liễu Hạnh lại bị Ngọc Hoàng đày xuống trần một lần nữa.Lần này liễu Hạnh đến đèo Ba Dội cũng là nơi vắng vẻ, rồi dựng lên ở đâymột cái lầu ba tầng, bốn bên có thành bao bọc. Trong thành vườn, đủ các thứ hoa thơm cỏ lạ.Trong vườn tập hợp đủ các giống chim.Cạnh vườn có ao, thả đủ các giống cá.Hàng ngày nàng sai mở nghỉ chân và nhìn ngắm. Ở đây có quán xá, và cũng như lần trước, Liễu Hạnh thường hóa thành cô gái bán hoa quả, quà bánh, trầu nước và đồ chơi.Ai ăn uống mua bán rồi đi thì không sao, nếu giở chuyện trộm cướp trăng hoa, lập tức bị nàng trừng trị.
Ở được mấy năm, Liễu Hạnh lại sinh một con trai thứ hai.Đứa bé thiết mất ở mỗi bàn tay một ngón.Nàng đem con gửi cho một sư nữ ở chùa Bà Đỏ và bảo sư rằng:
-Ta hai lần xuống trần đẻ được hai đứa con, cũng định cho chúng trở thành vương giả nhưng không đạt, vì một đứa quá thừa, một đứa lại quá thiếu.Hãy làm cho nó được nổi tiếng, ít nhất cũng trở thành Trạng.
Rồi đó, hết hạn ở trần,Liễu Hạnh đốt tất cả lâu đài mà trở về trời.
Những đứa con của Liễu Hạnh về sau quả nhiên nổi tiếng, trong đó có một đứa tên là Trạng Quỳnh.Chổ di tích ngôi đền của Liễu Hạnh xây lên ở xứ Thanh và ở xứ Nghệ, người ta dựng thành đền thờ trên núi.Không một ai dám động đếnmột vật gì ở các ngôi đền này cả, vì sợ Liễu Hạnh báo thù.
Khảo dị:
Truyện Liễu Hạnh từ lâu đã được Nho sĩ cải biên thành một truyện đượm màu sắc tôn giáo và nho hóa khác với truyện dân gian.Mặc dầu cho đến nay truyện kể trong dân gian đã ít nhiều biến đổi về chủ đề:Các hình tượng và tình tiết cũng đã được cắt xén sàng lọc.
Theo Thính Văn Dị Lục và một số Thần tích thì Liễu hạnh là con gái Ngọc Hoàng, vì đánh vở chén ngọc nên bị giáng xuống trần, đầu thai ở nhà Lê Thái Công, xa Vân Cát (Nam Định), mang tên là Giáng Tiên.Lớn lên làm con nuôimột viên quan hưu họ Trần, được học hành nên có tài văn chương, giỏi đàn sáo.Năm mười tám tuổi lấy chồng là Đào Lan, con một viên quan ở làng. Được ba năm, hết hạn đày, nàng không bệnh mà chết, để lại cho chồng một trai mộtgái.
Nhưng vì “trần duyên chưa dứt”, Ngọc Hoàng lại cho nàng xuống trần,lần này với phép biến hóa huyền diệu.Nàng gặp lại bố mẹ và chồng con, nhưng sau đó lại bỏ đi, tính tình phóng túng, tung tích vô định:khi làm cô gái thổi sáo, khi hóa bà già chống gậy, ẩn hiện bất thường. Ở Lạng Sơn, nàng làm thơ ghẹo Nho sĩ, ở Hồ Tây làm cô hàng rượu, ngâm vịnh và dự tiệc với các ông Phùng Khắc Hoan, họ Ngô, họ Lý,v.v…Lại vào Nghệ An,kết duyên với một người học trò, thường ngày thơ ca xướng họa với chồng, sau sinh được một trai,rồi lại về trời.
Sau ba năm,nhớ cõi trần,Liễu Hạnh lại xin vua cha cho xuống trần một lần nữa.Lần này nàng đem theo hai người thị nữ.Họ trú ngụ ở phố Cát (Thanh Hóa),về sau được dân địa phương ở đây lập đền thờ.Triều đình sau một thời kỳ sai Thuật sĩ tiểu trừ mà không xong, đành thừa nhận và sắc phong là Mã Hoàng Công Chúa.
Sách vở của phái Nội Đạo tràng miêu tả cuộc chiến tranh giữa Tiền qua với Liễu Hạnh như sau:
Khi đày Liễu Hạnh xuống trần, Ngọc Hoàng thấy chân tả của con đi dón gót, biết là xuống dưới ấy sẽ thành yêu, liền sai Tiền quan giáng sinh luôn để kịp thời ngăn chặn.
Có thói tàn nhẫn, Liễu Hạnh đi đến đâu đều không vừa ý thì rat ay sát hại.Cho nên ở đâu nàng cũng làm cho người và vật tử thương,Thành hoàng phải “xuất ngoại”. Người ta sợ nàng đến nổi bỏ công ăn việc làm, ban ngày đóng cổng không dám lên tiếng hoặc phải bày đàn ở ven đường cúng lễ.
Về sau đến Sùng Sơn (Thanh Hóa), thấy cảnh đẹp, Liễu Hạnh báo mộng cho Hào trưởng vùng ấy phải lập cung miếu.Thấy họ còn dùng dằng, nàng làm cho trong năm ngày chết hơn một nửa số dân.Khi cung miếu dựng xong, nàng thường hóa thành gái đẹp bán hàng, hễ bọn trai trẻ trong và nho sĩ trêu ghẹo thì vật chết.Tất cả quỷ thần trong vùng đều phục tùng.Quan địa phương lo sợ, tâu về triều.Vua sai các vị Pháp sư nổi tiếng đến trị, nhưng họ không trở về được.Có lần chúa Trịnh vào Lam Sơn, Liễu Hạnh cùng bộ hạ đón đường quấy phá.Chúa trở về giận lắm, sai người mời tất cả Pháp sư,Phù thủy và hội tất cả Thành hoàng vào đánh nhưng họ chỉ chuốc lấy thất bại.
Lại nói chuyện vị Tiền qua được giáng sinh làm con trai thứ ba một vị Thượng sư-là tổ sư phái Nội Đạo tràng-cả ba anh em đều được Phật tổ truyền cho phép thuật.Hai anh là Tả quan và Hữu quan tu tại Côn Sơn, còn Tiền quan thì ở ngay tại làng quê, tức là làng Từ Minh( Thánh Hóa) luyện đạo và truyền đạo cho học trò.Sau lần thất bại của các Pháp sư, Phù thủy, nhà vua sai sứ đi triệu Tiền quan về kinh phong làm Thượng tướng, cầm ba vạn quân đi đánh Liễu Hạnh.
Đến Tam Điệp, Tiền qua sai đóng quân lại, còn mình thì cải trang làm dân thường cưỡi ngựa trắng tìm đến Sùng Sơn.Gặp Liễu Hạnh,Tiền quan làm bộ thân mật:
-Ta báo cho biết sắp sửa có nạn lớn vì nàng đã trêu chọc vua chúa.Họ sắp cứ đến đây một pháp sư cao cường.E rằng nàng không địch nổi, nên ta đến xem nàng có nhũng phép gì, nếu thiếu, ta sẽ dạy cho.
Liễu Hạnh không ngờ gì cả, giở tất cả ba ngàn phép cho khách xem.Tiền quan hết lòng ca ngợi nói:
-Như thế này thì không cần phải học gì nữa.
Khi Tiền quan về rồi,Liễu Hạnh mới biết là mình mắc mưu, nhưng đã muộn.
Cuộc giao chiến bắt đầu.Bên Liễu Hạnh có các Thần bộ hạ đến giúp.Bên phía Tiền quan có hai ông anh cùng với Bát Bộ Kim Cang tiên phong; hai bên tả hữu có Hắc hổ, Bạch xà; trung tâm có Lục đinh lục Giáp.Sau ba ngày ba đêm chiến đấu, trời nổi mưa to gió lớn, bụi cát mù mịt, sấm sét đùng đùng, cây cối nhà cửa tả tơi, người vật chết khắp nơi, nước sông đỏ như máu.Cuối cùng quân của Liễu Hạnh thất bại.Quỳnh Hoa, Quế Hoa bỏ chạy.Tiền quan ngồi trên voi chín ngà giục thần tướng đem lưới sắt vây bọc.Liễu Hạnh hóa làm một đứa trẻ, nhưng bị đuổi kíp quá, lại hóa làm con rồng trốn trong một cái giếng.Tiền quan bắt được, trói bằng dây đồng, giải về kinh đô.Vua chúa đang ngồi trong điện, bỗng thấy một đám mây đen đầu rồng đuôi lân, rơi xuống văng lên ba lần ở sân điện, biết là Tiền qua đã thắng trận.
Nhưng Phật Tổ không muốn để con gái Ngọc Hoàng chịu sự trừng phạt của người trần,nên đã kịp thời xuống gặp ba anh em, bảo họ giao cho mình để mình làm cho nàng cải tà quy chánh.
Có người kể thêm đoạn kết như sau:
Khi Liễu Hạnh bị bắt thì Phật Tổ hiện ra giải cứu.Ngọc sư (tức Tiền quan) vâng lời Phật Tổ cho nàng một bộ áo Cà-sa, một cái mũ ni cô để quy Phật.Vì vậy, ngày nay ở nhiều chùa có dựng thêm điện ở phía say để thờ Liễu Hạnh.
Ở vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình trước đây, dân gian thường lưu truyền nhiều mẫu truyện về một cô gái thỉnh thoảng hiện hình trêu ghẹo những khách bộ hành đàn ông, nhất là các thầy Khóa, thầy Cử đi lại trên đường quốc lộ.Ví dụ truyện Cô Doạt ( Hà Tĩnh), Nàng Ba ( Quảng Bình).Có người nói những mẫu chuyện ấy vốn xuất phát từ”Sự tích Công chúa Liễu Hạnh” mà phát triển ra. Lưu Trọng Lư đã từng viết một truyện lãng mạn nhan đề là “ Người nữ tỳ của bà Chúa Liễu”. Có lẽ cũng hư cấu từ những mẫu truyện loại ấy.
Ở vùng Hà Đông cũng có lưu truyền nhiều mẫu truyện về Liễu Hạnh, ví dụ mộtmẫu sau đây:
Liễu Hạnh bị một Pháp sư bắt được bỏ vào một cái lọ nút kín, phía ngoài dán bùa rồi treo lên cây đa ở rừng vắng trên đường đi Vạn Phúc.Có hai vợ chồng đi bán dâu qua đó, nghe tiếng nói văng vẳng phát ra:
-Các con lên đây cứu mẹ, mẹ sẽ hậu tạ.
Hai vợ chồng trước sợ hãi, nhưng sau đánh bạo trèo lên cây, đưa lọ xuống.Kho đập vỡ lọ thì thấy một con bướm trắng bay ra, tự xưng là Liễu Hạnh, rồi biến mất.
Ở nhà mình, Pháp sư do tính hiệu riêng, biết giờ chết đã đến vì Liễu Hạnh đã trốn thoát và sẽ báo thù.Bèn sai con đem tro sàng khắp nền nhà, đoạn tắm rửa sạch sẽ rồi lên giường nằm đóng cửa lại, dặn vợ con đến giờ ngọ hãy mở ra. Khi vợ con mở cửa thì thấy Pháp sư đã chết, trên nền nhà có dấu bàn chân đi lại chi chít.v.v…[2]

28.PHẠM NHĨ HAY LÀ SỰ TÍCH ÔNG BA MƯƠI

Đã từ lâu, trên cõi Trời, có một người có sức khỏe lạ lùng, những việc dời núi lấp biển, đội đá bẻ cây…không một ai bì kịp.Nói về tài phép, ông cũng thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị trên thiên đình. Đặc biệt ông có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ.Vốn tinh nghịch và hung hăng, quen thói từ hồi trẻ, Phạm Nhĩ không mấy khi ngồi yên.Ông thường hay gây sự đánh nhau với những kẻ mà ông thù ghét.Nhưng người ta đều tránh né ông, chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng hảo hán không chịu nổi dù chỉ một cú đấm, cái gạt của ông.
Thấy mọi người đều thua tài, Phạm Nhĩ ngày một tỏ ra kiêu căng tự phụ.Ông cho rằng các vị thần xung quanh Ngọc Hoàng chẳng qua chỉ là đồ bị thịt, tài nghệ và sức khỏe không có tý gì.Và ông lấy làm bực mình vì sao bấy lâu danh tiếng mình nổi như cồn mà vẫn không được Ngọc Hoàng mời vào để trao chomột chức vị xứng đáng. Mỗi ngày lòng kiêu căng tự phụ của ông một lớn thêm mãi.Cho đến lúc Phạm Nhĩ đâm khinh nhờn cả Ngọc Hoàng, tự nghĩ rằng có sức mạnh và tài phép như mình thì nên làm vua nhà Trời mới phải.Thế rồi chẳng bao lâu ông đã tụ tập xung quanh mình một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người,thành một đội quân bất trị. Đội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên đình mà vỉ sợ oai Phạm Nhĩ cầm đầu đội quân tiến lên Thiên cung, đòi hạ bệ Ngọc Hoàng để cho mình trị vì thiên hạ.
Nghe tin chẳng lành, Ngọc Hoàng Thượng đế vội vàng sai các bậc tướng lĩnh đem quân nhà Trời ra ngăn chặn.Có đến mười tám vị tướng, vị nào cũng lục trí thần thông, miệng hét ra lửa, tay bẻ gãy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu.Không đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về.
Ngọc Hoàng lại sai năm mươi lực sĩ hầu cận, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ.Nhưng cũng chẳng mấy chốc ông đã làm cho bọn này nếm mùi thất bại chua cay.Quân đội nhà Trời vốn đông như kiến cỏ, không ngờ kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy tán loạn như ong vỡ tổ.Thừa thắng,Phạm Nhĩ thúc quân tiến lên vây chặt Thiên cung.
Thấy thế, Ngọc Hoàng Thượng đế hết sức lo lắng.Theo lời bàn của các triều thần, Ngọc Hoàng vội sai Bắc Đẩu cứu đức Phật.Nghe tin cáo cấp, đức Phật sai Chuẩn Đề tài phép cao cường là thế, lại bị ăn đòn nặng nề của Phạm Nhĩ đến nỗi lê lết chạy về, xiêm giáp tả tơi.
Sau rốt, đức Phật đành phải tự thân ra đi.Trong lúc Phạm Nhĩ đương hung hăng múa may chửi bới Ngọc Hoàng và bọn triều thần bất tài bất lực,thì đức Phật đã xuất hiện giữa không trung.Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ sa ngay vào túi thần của đức Phật, toàn thân co rúm không cất chân động tay được nữa.Thế là ông bị bắt.Bọn bộ hạ mất tướng như rắn mất đầu, không ai bảo ai tẩu tán khắp nơi.
Trước khi về, đức Phật giao lại tên tù cho Ngọc Hoàng xử trí, nhưng cũng dặn làm sao cho y hối lỗi chứ đừng giết hại.Ngọc Hoàng bèn quyết định đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp vật.Nhưng trước hết Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông để tước bớt sức mạnh, e rằng bất thần ông lại bay trở về Trời thì rất nguy hiểm.Hơn nữa, Ngọc Hoàng còn lo Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện bốn phương ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm.Bởi vậy để làm giảm bớt trí nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín lại.Tuy nhiên, thể theo lời dặn của đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm Nhĩ làm Chúa tể sơn lâm để an ủi đôi phần.
Từ khi xuống trần, tài phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn có cánh mà bay.Mặc dầu vậy, ông vẫn còn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh hiệu Chúa tể mà Ngọc Hoàng phong cho.Cho đến sau này, dòng dõi nhà ông vẫn nối nhau làm Chúa sơn lâm.Ngay loài người cũng phải kiêng ông, không dám gọi cái tên “hổ”,mà chỉ gọi tránh là “ông Ba mươi”.Tại sao lại gọi là “ông ba mươi”?- Đó là vì khi có người nào săn được hổ thì nhà vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con thú hung ác.Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu ba mươi hèo cho vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa.
Ngày nay còn có câu:
Trời sinh ra hùm có vây,
Hùm mà có cánh, hùm bay lên trời.
để nhớ cuộc náo động Thiên cung của Phạm Nhĩ xưa kia.[3]

29.SỰ TÍCH VỀ CHÙA THIÊN TƯỢNG

Một cụ đồ dạy học, một hôm sai học trò vỡ đám đất hoang để dựng nhà học.Cũng như truyện trên, cụ đồ mộng thấy một mẹ dắt năm đứa con nhỏ xin khoan khoan cho mình vài ba bữa.Cụ đồ sáng hôm sau dậy muộn, khi ra đến nơi vỡ đất thì học trò đã giết chết mấy con rắn con và làm bị thương con rắn mẹ. Đêm hôm ấy con rắn cũng nhỏ máu vào sách cụ đồ đang đọc xuống đúng chữ “tộc” thấm đến ba tờ.
Vợ cụ đồ sau đó có mang đẻ được một cô gái xinh đẹp.Lớn lên cô gái kết duyên với quan huyện, học trò cũ của cụ đồ.Lấy được ít lâu cô gái giết chết người vợ cả quan huyện rồi trốn đi.Cả nhà cụ đồ vì cớ ấy mà bị kết án tử hình.Còn cô gái trốn lên chùa dan díu với một chú tiểu, chẳng bao lâu chết cả hai.
Quan huyện cũng ngã bệnh nguy kịch, bao nhiêu danh sư đều bó tay. Nge đồnmột sư già ở chùa Thiên Tượng giỏi bùa phép, người nhà quan đến cầu xin, sư cho một đạo bùa bảo về cất mồ người vợ lẽ và chú tiểu đi nơi khác.Khi đào lên không thấy xương cốt, chỉ thấy hai con rắn to lớn lạ thường, bèn xúm lại đánh chết.Bệnh dần dần lành.[4]

30.SỰ TÍCH CHUÔNG,TRỐNG VÀ MÕ

Một nho sĩ đi chơi cứu một con lươn lạ khỏi tay bọn chăn trâu.Thấy lươn xin tha, nho sĩ đem thả sông.Sau đó ít hôm, hỏng thi, anh trở về làng, dọc đường phải qua một con đò ngang.Người ta cản không cho anh đi, nói rằng gần đây xuất hiện một con mãng xà khổng lồ, hay làm đắm tàu để ăn thịt người.Anh đoán đó là con lươn lạ mà mình đã thả dạo nọ, nhưng anh cả tin nó sẽ nể mình là người cứu nó, bèn tình nguyện một mình đi qua sông.Mãng xà nổi lên đòi ăn thịt.Anh kể lại công ơn mình cứu nó ngày nào nhưng mãng xà nhất định không tha.Chàng nho sĩ đòi tìm trọng tài.Mãng xà cũng ưng thuận.Lần đầu gặp trâu, trâu bảo ăn thịt là phải.Lần thứ hai gặp cá gáy cũng thế.Sau cùng gặp một cụ già, kỳ thực đó là đức Phật hiện hình.Phật cho gọi cả những con vật làm trọng tài vừa rồi lại mắng sự vô ơn bạc nghĩa của mãng xà rồi biến mãng xà thành cái chuông, con trâu thành cái trống, cá gáy thành cái mõ.[5]

31.SỰ TÍCH VỀ THIỀN SƯ CẢM THÀNH

Chùa Kiến Sơ, đời thứ 2.Người Tiên Du, họ Thị.Ban đầu Sư xuất gia, tên đạo là Lập Đức, ở tại núi Tiên Du của quận mình.Sư lấy việc đọc kinh làm sựnghiệp.Có hương hào họ Nguyễn mến Sư đức hạnh cao cả, muốn đổi nhà làmchùa mời Sư tới ở, bèn đến lấy tình mời Sư, Sư chẳng chịu nhận.
Ban đêm mộng thấy Thần nhân mách: “Nếu theo ý của Nguyễn, thì chẳng mấy năm sẽ được điều lành lớn “,bèn đáp lại lời mời.[6]
Chẳng bao lâu thì Thiền sư Vô Ngôn Thông đến.Sư biết Thông là người phi thường, sớm hôm phục dịch,chưa từng biếng nhác.Thông cảm động trước lòng thành của Sư, bèn đặt tên là Cảm Thành.Một hôm, Thông gọi Sư đến dạy: “ Xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên xong xuôi, Ngài vào Niết bàn.Chân tâm vi diệu như thế gọi là Chánh pháp nhãn tạng, thật tướng vô tướng, tam muội pháp môn, chính Ngài tự thân trao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca Diếp làm Sư Tổ, đời đời truyền nhau, đến Đại sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang, trải bao hiểm nguy để truyền pháp này cho đến Lục Tổ Tào Khê, đắc pháp với Ngũ Tổ.Khi Đạt Ma mới đến,vì người đời chưa biết tin nên lấy sựtruyền y để làm rõ việc đắc pháp.Nay đức tin đã chín mùi thì y bát là đầu mối của tranh chấp, phải dừng lại ở nơi ông, không nên truyền nữa.Từ đó, lấy tâm truyền tâm,không truyền y bát.Bấy giờ Nam Nhạc Nhượng đầu tiên được tâm truyền, rồi Nhượng trao cho Mã Tổ Nhất, Nhất lại trao cho Bách Trượng Hải.Ta nhờ ở Bách Trượng mà được tâm pháp đó.Lâu nghe phương này, hâm mộ Đại thừa cũng nhiều, nên ta xuôi Nam để tìm thiện tri thức.Nay gặp được ngươi, ấy bởi duyên xưa.Hãy lắng nghe ta nói kệ:
“Các nơi đồn đãi
Dối tự rao truyền
Rằng thủy Tổ ta
Gốc tự Tây thiên
Truyền pháp Nhãn tạng
Gọi đấy là Thiền
Một hoa năm lá
Hạt giống liên miên
Ngầm hợp mật ngữ
Muôn ngày có duyên
Tâm tông đều gọi
Thanh tịnh bản nhiên
Tây thiên cõi này
Cõi này Tây thiên
Xưa nay nhật nguyệt
Xưa nay sơn xuyên
Đụng đầu cũng vướng
Phật tổ thành oan
Sai một mảy may
Đi mất trăm ngàn
Ngươi khéo quan sát
Chớ lừa cháu con
Dẫu có hỏi ta
Ta vốn Vô Ngôn”.
Nghe xong lời đó,Sư liền tỉnh ngộ.
Một lần có vị Tăng đến hỏi: “Thế nào là Phật?”
Sư đáp: “Khắp hết mọi nơi”.
Lại hỏi: “ Thế nào là tâm Phật?”
Sư đáp: “Chẳng từng che giấu”.
Lại thưa: “Người học không hiểu”.
Sư bảo: “Đi quá xa rồi”.
Về sau,Sư không bệnh mà mất.Bấy giờ là năm Canh Thìn Đường Hàm Thông thứ nhất (860).
(Thiền Uyển Tập Anh-Lê Mạnh Thát dịch-NXB.TPHCM 1999)

32.SỰ TÍCH ĐỀN CÒN

Ngày xưa có một ông vua một nước láng giềng tên là Đế Bính.Vua lên ngôi giữa lúc có giặc ngoài đột nhập bờ cõi.Quân giặc rất đông và rất mạnh.Quân đội nhà vua chống chọi không nổi đành chịu thất bại.Vì thế chúng tiến rất nhanh, đi đến đâu cũng như vào chỗ không người.Chẳng bao lâu chúng đã chiếm lấy kinh thành và ruổi về phương Nam.Vua tôi Đế Bính chỉ còn đem nhau chạy dài.Trong cơn nguy ngập, một người trung thần đưa Vua và Hoàng hậu lên thuyền kéo buồm chạy trốn ra biển khơi.Không ngờ đoàn thuyền đi được ba ngày, thì mộttrận bão nổi lên đánh đắm tất cả. Những người trên thuyền đều không tránh khỏi tai nạn, trong đó có cả Đế Bính.Chỉ còn Hoàng hậu và hai người con gái bíu được vào một mảnh ván dành để mặc cho nước trôi sóng dạt.
Hồi ấy ở vùng cửa Cờn xứ Nghệ có một ngôi chùa cổ dựng trên một hòn đảo.Trong chùa có một sư trụ trì, là người quyết chí tu hành, nên sư ta tìm đến ngôi chùa hẻo lánh này để rũ sạch bụi trần, bạn cùng kinh kệ.Hôm ấy, trời về chiều, sư đang đi tản bộ quanh chùa, miệng lẩm nhẩm đọc kinh, tay lần tràng hạt.Thốt nhiên khi nhìn ra ngoài khơi,sư trông thấy thấp thoáng có một vật gì bấp bênh trên mặt sóng.Sư cố nhìn mãi để đoán xem nó là cái gì:
-Có thể là người đi biển bị nạn.Sau trận bão vừa qua có biết bao nhiêu là ván và đồ đạc trôi vào bờ.Ta phải chèo thuyền ra xem,may ra cứu được một mạng người nào thì thật là “phúc đẳng hà sa”.
Nghĩ vậy, sư vội vàng xuống bãi, cởi dây buộc thuyền rồi chèo ra khơi.Chỉ mộtchốc sau, sư đã đến gần vậy lạ.Thì ra đó là ba người đàn bà đang bám vào mộtmảnh ván.Lập tức, sư đỡ từng người một lên thuyền của mình.Nhìn cách ăn mặc, sư đoán họ là những người thuộc dòng quyền quý.
Khi thuyền chèo về đảo, một mình sư lần lượt vực ba người bị nạn lên chùa rồi đốt lửa cho họ sưởi, lại nấu cháo cạy miệng đổ vào.Sự chữa chạy tận tình của nhà sư không uổng công.Khoảng độ canh năm, cả ba người đàn bà đều đã ngồi dậy được.họ cho biết mình là ba mẹ con, đi thuyền không may bị bão.Tuy giấu kín tung tích nhưng họ không giấu được vẻ xinh xắn và lịch sự.Khi biết rõ ai là ân nhân của mình, ba người đàn bá bèn cúi rạp xuống lạy tỏ ý cảm ơn.Nhà sư vui vẻ nhường cho họ chỗ nằm trong Tăng phòng, rồi lui ra ngoài nghỉ cho lại sức.
Ba ngày sau, sư vẫn hết lòng chăm sóc ba người bị nạn.Họ đã dần dần đi lại được và ăn trả bữa.Có bao nhiêu lộc chùa, sư đều lấy ra khoản đãi.Sư còn chèo thuyền vào đất liền để tìm những thức ăn mà nhà chùa không có.
Mười lăm ngày trôi qua.Giờ đây sức khỏe của họ đã trở lại bình thường.Họ chỉ hàng ngày ngồi than khóc.Nhưng về phía nhà sư thì trong lòng không được bình thản như trước.Chưa bao giờ sư được nhìn thấy những người đàn bà mày ngài mắt phượng xinh đẹp đến thế, lại đã từng gần gũi đụng chạm nên sư đâm ra thẫn thờ. Đã nhiều lần sư đọc kinh cầu nguyện suốt buổi,cố tránh sự cám dỗ, nhưng công trình hơn ba mươi năm tu luyện cũng không thể kìm giữ được lòng ham muốn.Vì vậy việc trả họ vào đất liền để trao cho quan sở tại là việc dễ làm nhưng sư vẫn dùng dằng không quyết.Giữa một ngôi chùa trơ trọi,xung quanh là trời với nước bên cạnh lại có ba người đàn bà yếu đuối và cô đơn,sư cho đó là một cơ hội hiếm có.Rồi một đêm kia,nhân lúc hai cô gái ngủ say, sư bèn đến bên cạnh người thiếu phụ…Nhưng người đàn bà đã nghiêm nét mặt lại:
-Ôi!Sao lại thế?Anh là người cứu sống mẹ con chúng tôi, mẹ con chúng tôi suốt đời không quên công ơn to lớn đó.Nhưng còn việc đồi bại thì đừng hòng!Tôi là gái có chồng và cũng biết nhân luân đạo lý.Còn anh là một kẻ ăn chay niệm Phật, lẽ nào nói đến chuyện sắc dục mà không thẹn miệng.
Nghe lời đầy lẽ phải, sư ta lủi thủi đi ra.Nhưng đến khuya, sư lại mò vào,tay cầmmột con dao nhọn:
-Nếu nàng không chịu, ta sẽ giết chết cả ba mẹ con rồi vứt xác xuống biển.
Lời dọa của sư vẫn không làm cho người thiếu phụ sợ hãi.Nàng đánh thức hai con gái dậy và nói to:
-Nếu anh cứ cố tình phạm vào người mẹ con chúng tôi thì sẽ phải hối hận.Mẹ con chúng tôi thà chết chứ không chịu nhục!
Thấy ba người đàn bà quyết tâm kháng cự và toan đập đầu vào cột chùa, nhà sư đâm ra hối hận.Sư bèn ngăn họ lại rồi nói:
-Đừng làm thế! Đừng làm thế!Chính ta mới là kẻ đáng chết.Chao ôi!Ta có ba tội đáng chết. Đi tu mà mà chẳng trót đời: đó là một. Ép nài người đàn bà sa cơ lỡ vận: đó là hai. Ép nài không được lại toan hành hung: đó là ba!Ba tội như thế, ta chết là đáng lắm!
Nói đoạn sư cầm ngược lưỡi dao đâm thẳng lên cổ.
Thấy cái chết của ân nhân diễn ra quá đột ngột, người đàn bà tỏ ra hết sức hối hận.Nàng gục xuống bên cái thây mà than khóc:
-Ôi!Ta nhờ có anh mà sống.Thế mà anh lại vì ta mà chết.Vậy ta còn mặt mũi nào mà sống lấy một mình nữa.
Trong cơn xúc động đến cực điểm,bà liền chạy ra khỏi chùa rồi nhảy xuống biển tự vẫn.
Thấy mẹ chết,hai cô gái than khóc thảm thiết rồi cũng nhảy xuống biển chết theo.
Mấy ngày sau, những người dân chài ở cửa Cờn vớt được xác ba người đàn bà.Nhìn kiểu ăn mặc và nhờ những tin tức nhận được, các quan chức cũng đoán ra đó là ba mẹ con bà Hoàng hậu Đế Bính.Cũng vào lúc ấy,những người dân địa phương còn tìm thấy xác sư ông tự tử trong ngôi chùa trên đảo.Quan sở tại sau khi mở cuộc điều tra, dần dần cũng vén được tấm màn bí mật bao phủ lấy câu chuyện éo le trong ngôi chùa cổ.Về sau, để kỷ niệm những người đàn bà tiết liệt, dân chúng đã tạc tượng ba mẹ con, lập đền thờ gọi là đền Cờn.Trong đền cũng có cả tượng nhà sư để nhắc đến một kẻ vừa là ân nhân vừa là nạn nhân của họ.[7]

33.SỰ TÍCH BÃI ÔNG NAM

Ngày ấy, những người dân chài vùng biển Nam trong khi ra khơi làm ăn thường bị tai nạn bão tố.Mỗi lần bão tố thình lình xảy ra, nếu trên đất liền chỉ đổ cửa đổ nhà thì trên mặt biển khơi có thể chết hàng trăm hàng ngàn mạng người.Không những thế, nó chôn vùi xuống đáy biển biết bao nhiêu là chài lưới, thuyền mảng, những của cải mồ hôi nước mắt tích góp không phải chỉ một ngày.Vì vậy, những dân chài vùng biển Nam luôn luôn kêu gào oán trời trách đất độc ác phũ phàng, làm cho con mất cha, vợ lìa chồng,tán gia bại sản.Cuối cùng lời kêu gào của họ cũng động đến tòa sen.
Một hôm, đức Bồ-tát ngự trên tòa sen nghe tiếng than khóc,bèn cúi nhìn xuống toàn cõi biển Nam.Nhận thấy muôn ngàn sinh linh bỏ mạng đều là những con người nghèo khổ, lương thiện, chất phác, thì động lòng thương, bèn cởi ngay chiếc pháp y mình đang mặc, xé thành từng mảnh hóa thành một con vật để chúng làm công việc cứu giúp dân chài.Vừa xuất hiện ở Nam Hải, những con vật ấy bèn bơi lội khắp nơi, cố gắng làm những việc được giao,nhưng tiếc thay,thân tuy dài, nhưng không lớn mấy, không thể chống chọi với những cơn bão tố, chẳng đủ sức che chở cho ghe thuyền, nên cuối cùng kết quả không có bao lăm.Bởi vậy, một hôm, chúng họp nhau lại trình lên tòa sen để Bồ-tát biếtsự bất lực của chúng.
Thấy vậy, Bồ-tát bèn lại mượn mấy bộ xương voi ném xuống biển, biến những con vật bé nhỏ trước thành những con vật vừa dài vừa có vọc dạc khổng lồ.Bồ-tát dặn:
-Ta đã làm cho thân thể các ngươi đủ sức đương đầu với bão tố.Từ nay ta giao cho các ngươi chuyên giữ phận sự cứu nguy trên vùng Nam Hải.Các ngươi hãy cố gắng làm tròn bổn phận. Để giúp đỡ các ngươi, ta sẽ cho một số quân đi theo hầu hạ, đồng thời nhắc nhở các ngươi không được lơ là với công việc.
Nghe lời truyền phán, những con vật mới vui lòng chia nhau bơi đi các nơi làm chức trách của mình.Bọn quân hầu cũng chi nhau đi theo hết lòng giúp rập.
Nhưng Bồ-tát vẫn chưa vừa ý.Nhận thấy mấy con vật mới sáng tạo vì quá to xác nên không được hoạt bát nhanh nhẹn, Bồ-tát lại ban cho chúng phép thần thông để có thể sớm phát hiện ra tiếng kêu cứu xa hàng nghìn dặm. Đối với bọn quân hầu của chúng, Bồ-tát cũng cho một tên dùng mực để chỉ đường vạch lối cho chủ chúng đi được nhanh, một tên thì cầm một ngọn đao luôn luôn hô vệ tả hữu.Như vậy Bồ-tát đã tạo nên cá Voi, cá Mực và cá Đao.
Nhờ thế, dân chài vùng biển Nam cũng được an ủi đôi phần.Từ đó họ gọi cá voi bằng cái tên Ông Nam hay cá Ông.[8]
Bấy giờ ở một cửa biển Nam có một vàm sông[9]quen gọi là vàm Ông Đốc, cómột cá Ông làm trấn thủ tại đây.Cá Ông làm việc tận tụy, ít khi xa rời vùng mình cai quản.Nhưng một hôm nó có ý muốn được ngao du một chuyến ra khỏi cõi bờ để ngắm xem cho thỏa thích.Bèn tỏ ý ấy với những kẻ tùy tòng.Cá Mực và cá Đao đều trả lời:
-Hiện nay chưa phải là mùa dông bão, ngài có đi xa cũng chẳng sao.Chỉ mong ngài phải nhớ trở về sớm, đừng có la cà mà hối không kịp.Hơn nữa cũng cần phải bảo vệ tấm thân vì ngài đang kỳ thai nghén.
Được lời,cá Ông bèn quyết chí xuất hành cùng với cá Mập và cá Đao.Chương trình đã định là sẽ vòng theo mũi biển, cứ như bây giờ gọi khác, ở đó sẽ gặpmột số bạn bè và người thân thuộc, cuối cùng lại vòng theo mũi biển trở về chỗ cũ.Nhằm một buổi tối trời, cả đoàn kéo nhau ra đi.Vừa qua khỏi mũi đất, họ tiến vào vàm sông Bồ Đề. Đối với cá Ông, cuộc ngao du trở nên ngày một thú vị khi được gặp lại những người quen thuộc và được thấy những cảnh đẹp ở vùng biển Đông.Cho nên cả đoàn lưu lại nhiều ngày ở vàm sông Bồ-đề để xem cho thỏa thích trước khi rời lên phía Bắc.
Nhưng một đêm nọ, bỗng nhiên khí lạnh làm rởn da mọi người, báo hiệu mộtcơn sóng gió hãi hùng sắp nổ ra.Không ngờ bão tố lại xuất hiện bất thường như vậy, cả đoàn hết sức hoảng hốt.
-Trời nổi bão rồi!Chúng ta phải mau mau trở về đi thôi, vì thế nào cũng có người bị nạn.
Tiếng chủ tướng kêu lên.Và nó ra lệnh cả đoàn tập hợp đông đủ để chuẩn bị trở về.
Nhưng khi quay về, vì có phép thần nên cá Ông đã biết tin có một chiếc ghe đang vô tình vượt ra khơi thuộc vàm sông Ông Đốc.Cá Ông than thở:
-Ối!Vẫn còn có một chiếc ghe vật vờ ngoài vàm.Bây giờ mà trở về vùng ấy nhanh nhất cũng phải mất một ngày.Biết làm sao bây giờ?
Thấy cá Đao thỉnh thoảng lại húc bên hông,cá Ông hết sức lo lắng:
-Bây giờ đi về hướng biển thì e không kịp vì phải đi quanh.Chỉ có cách là chúng ta chịu liều đi tắt vào vàm sông Bồ-đề, tuy có nguy hiểm nhưng may ra có thể cứu kịp.
Bèn nói sao làm vậy, cả đoàn lại tiến phát.Nhưng khi lọt vào vàm thì bão đã nổi lên mỗi lúc một mạnh.Hơn nữa, sông Bồ-đề thì nước cạn mà thân của Ông Nam lại quá vĩ đại.Tuy vậy, theo dấu cá mực, nó vẫn cố trườn, có lúc phải trườn trên bãi đầy cây tràm và cây đước,xây xát cả mình mẩy.Hồi này nó đang mang thai.Vì phải cố gắng dùng hết sức lực nên cái thai bị sảo.Cá bé ra đời đáng lý có thể sống được, nhưng vì nước cạn nên chẳng mấy chốc thì tắt thở.Tuy lòng đau như cắt và mệt hết sức, Ông Nam vẫn không bịn rịn, vẫn cố xuyên qua dòng nước để về cho kịp vàm sông Ông Đốc, nơi mình có trách nhiệm với dân chài.
Chẳng mấy chốc cả đoàn về được đến nơi.Bão khi ấy đang tung hoành dữ dội hết mức.Cá Ông vùng ngay ra khơi, chỉ một nhoáng nó đã đội chiếc ghe sắp bị chìm lên lưng đưa vào bờ.Dọc đường nó còn cứu được năm chiếc ghe khác đang vật vờ trong sóng biển.
Vì đuối sức,nên chuyến ấy Ông Nam bị đau đến mấy tuần.Biết được mọi việc xảy ra, Bồ-tát cũng vui lòng xá cho đoàn đệ tử tội tự ý rong chơi mà không bẩm báo.
Từ đó,dân chài vàm sông Bồ-đề lập miếu thờ đứa con vô tội của cá Ông đẻ rơi trong khi làm phận sự.
Hiện nay cái miếu ấy vẫn còn, người ta quan gọi là miễu Ông Nam.Cả cái dòng nước mà ông vượt qua ngày nay đã bồi thành bãi,người ta cũng gọi là bãi Ông Nam.[10]

34.SỰ TÍCH ĐÈO PHẬT TỬ

Ngày xưa có bốn người đêm ngày đọc kinh niệm Phật, quyết tu cho thành đạo.Bốn người có bốn họ khác nhau: Hoàng, Trần,Lý, Lắm.Ba người đàn ông, riêng họ Lắm là con gái.
Sau hàng chục năm tụng kinh niệm Phật, ăn chay tu chí trong chùa, họ đều trở thành những Tăng Ni đắc đạo.Chọn được ngày lành tháng tốt,họ liền cùng nhau tìm đường lên núi Thiên Sơn để hóa Phật. Đường đi Thiên Sơn xa lắc xa lơ,thành thử họ phải đi ròng rã mấy năm trời mới tới nơi. Đến chân núi Thiên Sơn, cả bốn người đều mệt nhọc không sao tả xiết.Nhưng ai cũng nghĩ đã tu thân quyết chí đến được đây mà bỏ cuộc thì uổng quá!Nên dù trời đã gần tối, họ vẫn theo đường mòn để leo lên đỉnh núi.Khi tới đỉnh đèo, đêm đã khuya lắm, trời tối đen như mực,bụng đói cồn cào,họ đã kiệt sức, không đi tiếp được nữa.
Cái đói và mệt nhọc buộc họ phải dừng lại nghỉ,nhưng không ai chợp mắt nổi.Bỗng một người trong bọn họ lên tiếng:
-Bây giờ nếu có một cây gậy ước thì các bậc đàn anh muốn ăn gì nào?
Mọi người đã quá đói và mệt,nên họ không còn giữ gìn nữa, ai thích thứ gì dù những thứ người tu hành phải kiêng, nay cũng nói toạc ra.
Thoạt tiên người họ Trần nói:
-Tôi ước được chén một bữa thịt chó, có đủ gia vị, cúc tần, riềng lát, rau mùi, húng chó…
Người họ Trần đang kể lể thì người họ Hoàng ngắt lời:
-Tôi mơ ước một bữa thịt trâu.Trâu càng già càng dai, nhai càng đã răng.
Người họ lý nói tiếp lời luôn:
-Tôi chỉ muốn bữa thịt gà luộc có lá chanh.
Sau cùng Ni cô họ Lắm nói:
-Tôi chỉ thích một nữa rau luộc cho mát, và húp cho đỡ khát thôi.
Sáng dậy, khi mỗi người đang chuẩn bị xuống đèo đi tiếp, thì có một ông già râu tóc bạc phơ chống gậy từ chân dốc đilên, vẻ mệt nhọc, nhưng cất giọng sang sảng nói:
-Các ngươi ở đâu đến đây?
-Thưa cụ!Bầy Tăng chúng tôi đi tìm đường lên núi Thiên Sơn để hóa Phật đấy ạ.Dám mong cụ chỉ đường giúp cho.
Nghe xong câu trả lời, ông già nói:
Được,ta sẽ đưa các ngươi đến núi Thiên Sơn nhưng bây giờ các ngươi hãy nhổ nước bọt xuống lá xây xem đã.
Nói xong, ông già rút ra từ trong túi ra bốn cái lá Bồ-đề to như nhau, rồi đặt trước mặt cho từng người nhổ vào đấy.Bốn người nhổ xong, đều cảm thấy lợm giọng, ruột gan nao nao buồn nôn.Trong nháy mắt cả bốn người đều nôn tống nôn tháo.Quái lạ là đêm hôm qua ai ước ăn gì đều nôn ra thứ đó.Thấy ba người nào là thịt gà,thịt trâu, thịt chó, duy chỉ có Ni cô họ Lắm là nôn ra rau xanh. Ông già bèn nói:
-Chính đây là núi Thiên Sơn, các ngươi đã đến cõi Phật rồi.Nhưng nôn ra toàn là thứ kiêng kỵ, thì sao gọi là chân tu được.Các ngươi không thể hóa Phật được đâu.
Rồi ông già ngoảnh lại chỉ vào Ni cô họ Lắm nói:
-Người này cứ theo đỉnh chớp mà đi lên, chớ đi xuống, sắp tới nơi rồi.
Ni cô họ Lắm theo đường mà lên, rồi hóa thành Phật Bà Quan Âm.Phật Bà có nhiều phép lạ để trị bọn âm binh quấy nhiễu, giữ gìn phúc lành cho muôn dân.Ngày nay họ Lắm thờ Phật Quan Âm trong nhà và mỗi khi Tết đến cúng Phật Bà đều phải có một cái bát canh rau.
Còn ba người kia xấu hổ vì không được hóa Phật lại mất bao công sức tu thân, nên buồn rầu mà chết ở giữa đỉnh đèo.Họ chết ở nơi hoang vắng đó, chẳng ai hay mà chôn cất, nên sau này người đời truyền nhau khi đi qua đèo đều phải mang theo nắm đất hay hòn đá ném vào chỗ đó để đắp thành mộ.Chỗ đất ấy người ta gọi là mô “Phật”.Từ đó mô “Phật”ngày một cao lên và tên đèo được đổi thành đèo Phật Tử.[11]

35.SỰ TÍCH CON CHIM BÌM BỊP

Thuở ấy có một ông thầy đã bốn mươi năm ròng rã ăn chay niệm Phật nơi cửachùa mà vẫn chưa thành chính quả.Ông ta bèn quyết chí khăn gói ra đi để hỏi Tiên Phật xem tại sao lại như vậy. Ông ta đi mãi, ròng rã đã sáu tháng trời.Mộtđêm nọ, đang ở trên một ngọn núi cao nhìn xuống chân núi, ông thấy có ánh đèn le lói bèn lần theo ánh đèn tới nơi, thì ra đó là một ngôi nhà lẻ loi giữa rừng.Nhà tu hành xin vào nghỉ trọ.Một người đàn bà ra mở cửa và nói chồng đi vắng không dám cho đàn ông lạ mặt ngủ trọ.
Vào lúc đó, ông chồng của bà ta về, trông mặt mũi vô cùng hung ác.Hắn mộtmực đổ oan cho kẻ lạ mặt có ý sàm sỡ với vợ mình và đòi giết cho bằng được nhà tu hành.Nhà tu hành chắp tay kêu oan mà kể lể sự tình cùng gã đàn ông nọ.Nghe xong, gã đàn ông dịu sắc mặt,hỏi người tu hành:
-Ta đây giết đến bốn mươi mạng người rồi, đã sát hại nhiều sinh linh quá, không biết còn tu hành chính quả được nữa không?
Nhà tu hành liền an ủi:
-Con người ta tu cốt ở tấm lòng, nếu thực lòng hối cải thì tất là đấng thiêng liêng sẽ biết tới.
Không ngờ vừa nói xong, gã kẻ cướp bèn phanh ngực áo lấy dao moi tim mình đưa cho thầy tu, và nhờ ông ta chuyển tới Tiên Phật, nói xong liền tắt thở.Nhà sư đọc kinh siêu thoát cho gã đàn ông nọ, rồi lại khăn gói lên đường, mang theo quả tim của người vừa chết.
Nhà tu hành rời căn nhà lẻ loi ấy ra đi.Lúc này đang là mùa nóng.Trời nắng như thiêu như đốt.Ngày thứ nhất quả tim của người xấu số bắt đầu nặng mùi, nhà tu hành vẫn cứ gói kỹ lại mang đi.Ngày thứ hai, quả tim sinh giòi bọ, nhà tu hành vẫn kiên nhẫn mang đi. Đến ngày thứ ba thì mùi hôi thối nồng nặc, ruồi nhặng bay theo đen kịt.Không thể chịu được nữa, nhà tu hành bèn nghĩ bụng:-“Tu cái gì thằng kẻ cướp ấy, thôi ta quẳng nó vào bụi cây cạnh đường rồi đi tiếp”. Đi được một đoạn nhà tu hành gặp một ông cụ râu tóc bạc phơ nhưng mặt mày lại phương phi, hồng hào.Nhà tu hành bèn quỳ sụp xuống lạy rồi kể lể bao nhiêu công lao tu hành và đoạn đường vất vả, cùng ý định tới đây của mình.Cụ già đỡ nhà tu hành dậy và hỏi:
-Dọc đường có ai gửi gì không?
Lúc này nhà tu hành mới tỉnh ngộ, bèn quay lại tìm quả tim mình đã vứt đi.Tiếc cho phận mình sắp thành chính quả, nghe theo lời ông già,nhà tu hành trở lại loanh quanh tìm hết từ bụi này sang bụi khác và ngày này qua ngày kia mà chẳng thấy quả tim đâu.Cứ thế một ngày nọ ông ta chết ở bụi rậm và biến thành chim bìm bịp.Màu lông của chim nửa nâu nửa đen giống như chiếc áo của nhà tu hành ngày xưa vậy.
Người ta cho rằng sở dĩ chim bìm bịp cứ bay hay rúc hết bụi cây này sang bụi cây khác là để tìm lại quả tim nọ.[12]

36.TRUYỀN THUYẾT VỀ TỔ SƯ HUYỀN QUANG

Vào thời nhà Trần, có một người học trò trẻ tuổi ở xứ Bắc tên là Huyền Quang.Nhà chàng không đất cắm dùi, nhưng cha mẹ chàng thì cố công cố sức làm thuê làm mướn các nơi để nuôi con ăn học.Khi Huyền Quang đến tuổi lấy vợ, cha mẹ dạm cho một cô gái, con một nhà khá giả trong vùng.
Trải mấy năm trời, chàng đã từng sêu tết và đi làm rể bên nhà vợ khá là vất vả.Cho đến ngày gia đình sắm sanh lễ vật xin cưới thì đột nhiên bên nhà gái trở mặt, trả lễ lại và từ hôn.Huyền Quang lấy làm buồn lòng vì thói đời tráo trở, chàng càng đau lòng hơn khi thấy cô gái ấy thuận lấy người cháu họ một viên An phủ sứ.
Sau đó,cha mẹ chàng lại tìm cho con một đám khác, nhưng cuộc nhân duyên lần này cũng dở dang, chỉ vì nhà gái chê nhà trai không có mả làm nên, không phải là nơi nương tựa.Vì vậy cho đến năm hai mươi tuổi, Huyền Quang vẫn mộtthân một mình.
Từ khi thất vọng về đường tình duyên, Huyền Quang lại càng bấm chí về đường kinh sử.Năm hai mươi hai tuổi, chàng thi đậu ở trường thi quê nhà, rồi vào thi Đình đậu luôn Trạng nguyên.
Nghe tin Huyền Quang đậu Trạng, có mấy tay phú hộ ở quanh vùng bắn tin có con gái đến tuổi lấy chồng kèm theo cả một tư cơ đồ sộ.Một ông quan lớn ở kinh kỳ cũng mời quan tân khoa về thái ấp mình để xem mặt cô con gái yêu tuổi vừa đôi tám.Tiếp đó, ngày chàng vào kinh bái mạng để nhận chức, một viên Nội giám đến gặp riêng chàng và rỉ tai:
-Hoàng hậu đang kén phò mã cho Công chúa đấy.Nếu quan Trạng muốn, thì việc tốt đẹp nhất định phải thành.
Thấy tình đời như vậy, Huyền Quang than:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗTrạng tám nghìn nhân duyên.
Than đoạn, chàng nguyện suốt đời sẽ không lấy vợ.Thế rồi người ta thất chàng nhất quyết từ chối mọi hứa hẹn tốt đẹp.Nhưng cuộc đời danh vọng của Huyền Quang cũng không làm cho chàng vui lòng.Nhìn thấy những cảnh tượng xấu xa trong đám quan trường, chàng lại càng ghê tởm.Từ đấy Huyền Quang tỏ ra chán đời.Làm quan chưa được bao lâu, chàng đã đệ đơn lên vua xin từ chức để đi tu.Bấy giờ cha mẹ nàng đã nối gót nhau qua đời.
Vua không thể nào bắt ép chí của chàng được.Huyền Quang tu hành rất chăm chỉ.Chẳng bao lâu, chàng đã thông thuộc tất cả kho tàng kinh sách của nhà Phật.Rồi đó, nhờ có học vấn không ai bì kịp,Huyền Quang được nhà vua ban cho danh hiệu Quốc sư.Vua còn cho chàng trông nom viện Trúc Lâm và cho Trụ trì ở một ngôi chùa lớn cai quản hàng mấy nghìn Tăng Ni.còn ít tuổi như chàng được trở thành một bậc Giáo chủ, người đời bấy giờ coi là việc hiếm có.
Hồi bấy giờ vua Anh Tông mới lên ngai vàng.Thấy vị Tổ Trúc Lâm là một người cón ít tuổi,Vua không tin là có thể chịu đựng nổi sự diệt dục khổ hạnh. “ Cứ đưa đến một cô gái đẹp, nhất định thế nào thầy cũng sa ngã”.Nghĩ vậy,Vua có ý định thử xem đạo đức của vị trẻ tuổi này như thế nào.Nhân mấy ngày Hoàng hậu se mình, Vua cho triệu Tổ về kinh làm lễ cầu siêu.Sau mấy đêm ngày công việc cầu siêu đã xong, trước khi chàng trở về chùa, Vua sai ban cho 10 lạng vàng để đền công khó nhọc.Huyền Quang không tiện chối từ, đành phải cầm lấy, nhưng chàng đâu có ngờ rằng cái bẫy đã bắt đầu giương ra để đợi người nhẹ dạ.
Thế rồi sau đó ít lâu,Vua cho một cung nữ nhan sắc xinh đẹp, tên là Điểm Bích, tìm cách đến chùa, nơi Huyền Quang trụ trì, bảo phải quyến rũ cho bằng được.Vua còn dặn Điểm Bích phải làm sao lấy ở sư thầy ít nhất là một lạng vàng đưa về làm tang chứng.
Lại nói chuyện Huyền Quang,hôm ấy nghỉ tại một thiền trai cất trên một ngọn đồi, cách viện Trúc Lâm chừng vài dặm. Đây là một gian nhà nhỏ, rất tĩnh mịch mà Vua sai xây cho chàng để nghỉ ngơi sau những ngày giảng kinh mệt nhọc.Vào khoảng tắt mặt trời, chú tiểu đưa vào một cô gái vẻ mặt hốt hoảng nhợt nhạt, áo xống tơi tả.
-Bạch thầy, người này bị cướp đuổi vừa gọi cửa kêu cứu.
Đó là Điểm Bích, lúc này đã cải trang thành một cô gái quê mùa.Nàng khóc sướt mướt, một hai xin nhà chùa cho ở trọ đêm nay.Nàng bịa ra câu chuyện bị côn đồ đuổi và phải chạy trốn vất vả như thế nào làm cho Huyền Quang không thể từ chối được.Cuối cùng theo lệnh của chàng, chú tiểu sắp xếp cho Điểm Bích một chỗ nghỉ ở phía ngoài thiền trai.
Sự việc vừa xảy ra làm cho Huyền Quang thấy trong lòng không được yên tĩnh.Chàng để cho chú tiểu đi nghỉ, rồi giở quyển kinh ra tụng niệm mãi tới khuya.Sắp sửa đặt lưng xuống giường, chàng bỗng nghe tiếng rên rỉ của người đàn bà.Chàng lại phải đánh thức chú tiểu dậy xem thử thế nào.Khi nghe nói người đàn bà muốn xin được vào nằm phía trong thiền trai, vì ở ngoài không ngăn được sự sợ hãi, Huyền Quang lấy làm bối rối.Nhà thì hẹp, chỉ có ba gian, nhân thân chỉ có hai thầy trò, các tăng chúng đều ở xa không tiện gọi.
Suy nghĩ giây lát, Huyền Quang bất đắc dĩ cho người đàn bà vào ở chỗ tiếp khách, còn mình thì lui vào trai phòng khóa cửa lại.Nhưng vừa chợp mắt đi được một lúc, đã lại nghe tiếng rên rỉ ở phía bên ngoài.Chàng lại ngồi dậy, cầm lấy tràng hạt và quyển kinh. Nhưng khi bước ra khỏi trai phòng, qua ánh đèn dầu le lói, chàng đã thấy người đàn bà nằm lõa lồ trên bộ ván.Chàng bước vội trở vào và quyết định ngồi trên giường tụng niệm cho tới sáng để tránh sự cám dỗ.Không ngờ giữa lúc những tiếng tụng niệm vừa cất lên thì Điểm Bích ở đâu đã sán lại ngồi bên cạnh chàng, nói những câu cảm ơn nhưng lại xen vào nhiều lời khêu gợi.
Biết người đàn bà này đến đây có mục đích không lương thiện, Huyền Quang liền nghiêm nét mặt lại:
-A-di-đà-Phật.Nàng là ai? Tại sao tìm đường vào đây để quấy rối những người tu hành?Nếu không mau mau cải tà quy chính, ta sẽ hô hoán lên cho mọi người đến cầm lá dắt ra khỏi tu viện.
Thấy Huyền Quang không phải là hạng người dễ quyến rũ, Điểm Bích đành phải thay đổi thái độ.Nàng chuyển sang bộ mặt rầu rĩ và bịa ra câu chuyện để gợi lòng trắc ẩn.
-Thiếp vốn là con nhà thế phiệt.Bố thiếp làm quan một huyện ở vùng biển.Mùa tháng năm vừa rồi, nhân đi thu thuế được ba nghìn quan, cho dân phi đài tải về kinh.Không ngờ bị bọn cướp đường đón lấy mất cả.Quan trên thương tình cho khất đến cuối năm.Hiện nay bố thiếp thu góp tư trang mới được chừng mộtnữa.Bởi vậy thiếp phải đi khắp đó đây xin các nhà từ thiện, kẻ ít người nhiều để bù vào số thiếu.Hôm nay đánh bạo đến đây xin Hòa thượng rũ lòng thương xót, quyên cấp cho ít nhiều.Nhưng thấy cảnh chùa tôn nghiêm, nếu nói thật chưa chắc đã được, vì vậy phải dùng mẹo nhỏ để gặp Hòa thượng, sau đó mới tỏ bày mục đích.Dám xin Hòa thượng mở lượng hải hà cứu vớt lấy bố thiếp và cả nhà thiếp.Thiếp nguyện đưa thân nữ tỳ hầu hạ suốt đời.
Nghe nàng sụt sùi kể lể, Huyền Quang không ngăn được cảm động.Chàng vội trả lời:
-Nàng đừng có lo lắng gì cả.Ngày mai ta sẽ tiến triều,tâu với Vua xin tha tội cho cha nàng.
Sợ Huyền Quang về triều thì việc của mình không đạt, Điểm Bích lại nói:
-Bạch Hòa thượng, việc của bố thiếp còn may là chưa đến tai Thánh thượng.Hòa thượng về tâu giúp cho thật là công đức vô biên, nhưng thiếp không muốn vì việc nhà thiếp làm phiền Hòa thượng phải xuống núi nhọc sức.
Huyền Quang sực nhớ tới mười nén vàng của Vua còn bày ở trai phòng.Chàng vội lấy ra đưa cho người đàn bà mà rằng:
-Ta biếu nàng tất cả,nàng đưa về mà chuộc tội cho cha!
Lại nói chuyện khi trở về cung,Điểm Bích liền nộp mười nén vàng và tâu dối với vua rằng mình đã cám dỗ được con mồi. Để vua tin, nàng còn đọc lên một bài thơ yêu đương nói là của Huyền Quang đã ngâm tặng mình trước khi phá giới:
Vằng vặc trăng mai ánh nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sinh.
Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ,
Mâu Thích Ca nào chẳng hữu tình.
Nghe xong câu chuyện và nhìn thấy mấy nén vàng, nhà vua thở dài hối hận:
-Chao ôi! Bậy quá!Ta đã làm hại một vị tu hành trẻ tuổi.Tự dưng vô cớ đi gài bẫy, nhất định con chim khó thể tránh được.Biết làm thế nào bây giờ?
Nghe nói thế, một viên quan ghé vào tai Vua hiến kế:
-Tâu Bệ hạ,xin Bệ hạ cho thiết lập một lễ cúng Phật, dọn toàn cỗ mặn rồi mời Thầy về làm lễ.Nếu quả là Thầy còn trong sạch thì chư Phật sẽ độ cho cỗ mặn hóa ra chay, nhược bằng đã hư hỏng rồi thì chẳng bao giờ được độ.
Vua cho là phải, bèn hạ lệnh cho gọi Huyền Quang về triều để chàng làm một lễ chay trọng thể vào dịp rằm thánh bảy sắp tới.Vua còn bắt quân hầu dựng mộtđàn tràng nguy nga, các rạp đều trần thiết toàn bằng lụa hoàng quyến.Trái hẳn với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ,Vua ra lệnh cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.
Khi sắp bước vào rạp, Huyền Quang biết nhà vua cố ý làm nhục mình.Các mâm cỗ mặn tanh tưởi bày trên đàn kia, nếu không phải là một sự xỉ vả thì còn gì nữa.Lụa hoàng quyến nói lái lại rõ ràng ám chỉ hai tiếng “Huyền Quang”.Chàng bèn ngửa mặt lên trời lớn tiếng khấn:
-Kẻ đệ tử này nếu có điều gì bất chính,xin chư Phật cho đày xuống A-tì địa ngục,còn nếu không thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả!
Tự nhiên một trận gió mạnh nổi lên, cát bụi mù mịt, trời đất tối sầm cả lại.Mộtchốc gió tan,mọi người nhìn lên đàn tràng,lạ thay,tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành cỗ chay tinh khiết thơm thơ,mọi mùi tanh tưởi đều đã bị quét sạch từ bao giờ.Huyền Quang thủng thỉnh bước lên đàn tràng giữa tiếng reo hò của Chúng Tăng và mọi người.Vua Anh Tông được tin ,lập tức ra lệnh bắt Điểm Bích bỏ ngục để chờ ngày phán xử,rồi xa giá tới gặp Huyền Quang tạ lỗi.Câu nói đầu tiên của Huyền Quang là xin vua tha tội cho Điểm Bích.[13]
Khảo dị 1:
Theo lời kể của một số người Bắc Ninh khác thì phần sau câu chuyện có khác với truyện vừa kể:
Hồi ấy nhà vua ngự giá đi chơi có tặng Huyền Quang hai mươi lạng vàng.Việc nhận vàng làm cho nhà vua nghi ngờ tấm lòng cao thượng của Huyền Quang.Lúc về cung Vua cho gọi các phi tần, cung nữ xem ai có thể nhận nhiệm vụ thử thách vị tổ trẻ tuổi.Không một ai chịu đi cả.Sau cùng có Công chúa thứ ba-một cô gái học giỏi-nhận lời.Cũng như truyện trên,Công chúa cải trang tìm đến chùa,bịa ra câu chuyện cướp đuổi,xin trọ.Huyền Quang cho ở phía ngoài.Sự khiêu khích lần đầu của Công chúa không có hiệu quả.Trongchùa,Huyền Quang tụng hết quyển kinh này sang quyển kinh khác.Ngoài này, Công chúa dùng bút giấy ghi chép tất cả.Sáng hôm sau,Huyền Quang lục thúng khảo của Công chúa thấy những bản ghi chép không xót câu nào thì ngạc nhiên tưởng là tiên,bèn xiêu lòng.Sau đó Công chúa xin về,trong thúng có hai mươi lạng vàng của Huyền Quang tặng.
Vua có đủ chứng cớ, cho đòi Huyền Quang về bắt làm tờ tự thú.Có câu:
Tụng ba mươi sáu quyển kinh,
Bụi trần chưa sạch,tơ tình còn vương.
Nay nhờ ơn lệnh quân vương,
Rộng dung ân xá đội ơn nghìn trùng.
Các quan đều quỳ lạy xin tha cho Huyền Quang.Một người hiến kế cho vua như trên đã kể.Nhưng phép của sư còn thiêng,bao nhiêu cỗ mặn đều hóa chay cả.Vua tha cho, nhưng Huyền Quang cũng không được thành Phật.Có câu ngạn:”Từ Thức tu không thành tiên, Huyền Quang tu không nên Phật”.[14]
Trong sách “Huyền Quang Hành”[15]có kể truyện Huy Huyền Quang,nội dung tương tự với lời kể trên Đại thể là:
Sư Huyền Quang nổi tiếng chân tu, được vua Trần Minh Tông kính trọng,ban mười lạnh vàng.Nhưng sau đó Vua sai Nguyễn Thị Bích đi thử,dặn lấy cho được vàng làm tin.Lúc đầu Sư cự tuyệt không cho vào,nhưng vì nàng dùng lời nói khéo khẩn cầu, nên Sư cho ở phía ngoài Tăng phòng. Đêm khuya gió mát, trăng sáng như ban ngày.Sư ngủ không được,bèn đi tản bộ quanh chùa, thấy khách hơi lõa lồ,bèn bỏ đi.Nhưng rồi Sư lại trở lại, không giữ được lòng nữa,bèn làm thơ tỏ tình. Đến lượt cô gái cự tuyệt,khiến Sư phải cho vàng mới xong.Thấy vàng, Vua bèn gọi Sư về bày đàn thuyết pháp.Trông thấy bức màn bằng lụa quyến nhuộm vàng,Sư nói: “Hoàng quyến nhuộm sắc tức là ta”. Đoạn sau, không có chuyện cỗ mặn hóa thành chay.[16]Còn có câu ca truyền lại:
Dù mà cạn nước Bình Than,
Rửa làm sao sạch tiếng oan cho thầy.[17]
Về nàng Điễm Bích, cũng có truyện riêng:
Tương truyền nàng là con một người đàn bà ăn xin ở huyện Đường Hào (Hải Dương).Sinh ra không có cha, người mẹ đem nàng cho một nhà giàu làm con nuôi,mang tên là Tam Nương (nàng Ba) và được theo đòi bút nghiêng.Dần dần học rộng, giỏi thơ văn, được vua Trần Anh Tông kén làm cung nữ, có lúc Vua vì trọng tài gọi nàng là “gái thần đồng”.Vì vu oan cho Huyền Quang, Điểm Bích sau đó bị giáng làm nữ tỳ hầu ở chùa trong cung Cảnh Linh.[18]Trong “Vũ Trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ có nói rằng, hồi còn bé ông có được nghe kể chuyện về Điểm Bích và người ta còn đào được mộ nàng.
Khảo dị 2:
Truyện kể về vị Tổ thứ ba của chi phái Trúc Lâm là nhà sư Huyền Quang (tên thực là Lý Đạo Tái),có đoạn kể lại việc vua Trần thử thách sự trì giới của nhà sư như sau:
“Khi ấy Sư sáu mươi tuổi.Một hôm nhà vua bảo thị thần và Tăng đạo rằng:
-Người ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí dương, ăn thì thích vị ngon, mặc thì thích màu đẹp, ai nấy đều có tình dục.Bọn chúng ta mà ngăn hãm cái mặt ham muốn ấy chính là có thể dốc lòng phụng đạo, như thế đã đành đi một lẽ vậy.Cớ sao vị Lão tăng Huyền Quang từ trước đến nay, chỉ cómột lẽ sắc sắc không không, như nước chẳng gợn sóng, như gương chẳng bụi mờ. Đó là vì ngăn hãm tình dục chăng?Hay là vì không có tình dục chăng?
Có một viên quan từ bên cạnh tâu rằng:
-Vẽ hổ chỉ vẽ được da, khó vẽ được xương.Biết người chỉ biết được mặt, khó biết được lòng.Xin hãy thử để xem như thế nào là đúng.
Nhà vua nhìn xem ai, thì đó là một học sĩ trẻ, Lưỡng quốc Trạng nguyên, họ Mạc tên là Đĩnh Chi.Nhà vua cho ý kiến là phải.Bèn im ắng không hề động đạc, không lộ góc cạnh, ngầm có ý chọn lấy trong đám cung nữ một người dưới hai mươi tuổi, có cái nõn nà như Phi Yến[19],có cái đẹp khéo như Điêu Thuyền[20].Có một cung nhân tên là Điểm Bích, hiệu là Tam Nương…Nhan sắc rất đẹp,tính lại ham học,cửu lưu tam giáo không có cái gì là chẳng thông hiểu…Điểm Bích khi tuổi mới lên 9, đã được tuyển vào trong cung làm nữ cung nhân…Thơ trường thiên ngũ ngôn cứ mở miệng là thành chương, thơ quốc ngữ lại càng giỏi…Nhà vua khen rằng đó là nữ thần đồng…Khi ấy nhà vua triệu vào nội điện,ban cho bút trát và bảo rằng:
-Ông sư ấy vốn không có sắc dục, tính nết cương phương, giới hạnh rất cao.Nàng có nhan sắc, giỏi ngôn từ,lại thông kinh sử.Nàng hãy đến thử thách ông sư ấy, nếu thấy động tình quyến luyến thì dỗ dành xin được vàng mang về đây làm chứng cớ.Nếu dối trá thì có tội đấy.Nàng phải kính cẩn mà làm theo ý chỉ này của trẫm.
Thị Bích nhận lệnh chỉ của vua ra đi, đem theo một nữ tỳ. Đến (chùa) Vân Yên, vào gặp một bà vãi già,khai quê hương và căn cước, xin xuất gia tu hành học đạo, nhờ gửi lời lên Quốc sư (Huyền Quang).Bà vãi già thường sai Thị Bích sớm chiều dâng nước chè lên Quốc sư.Sư thấy con người này khi động khi dừng,có cái vẻ Hằng Nga trên mặt trăng lả lơi với gió,không phải là hạng Phật tử cầu đạo, bèn sai Tăng Ni chuyển lời trách bà vãi già,truyền bảo nàng Thị Bích quay về nhà đi lấy chồng, lập sinh nghiệp, đợi khi về già thì sẽ lại cho đến học đạo.
Thị Bích thấy Sư nghiêm túc,khó chuyển lay, bèn nói với Tăng Ni rằng mình vốn con nhà quan,cha thu thuế đem về kinh nộp bị mất trộm hết cả tiền, đương lo phải tội nàng phải đi khuyến giáo lấy tiền cứu cha.Nay xin vâng lời ra về,nhưng mong được giúp đỡ.Tăng Ni thưa với Huyền Quang.Sư bèn cho nàng một dật vàng để góp vào số tiền mà nàng cần có để giúp cha đền vào công quỹ.Và Thị Bích được vàng,bái biệt để về.
Về đến kinh, vào gặp vua, quỳ tâu rằng:
-Thiếp vâng ý chỉ của Bệ hạ đi thử Quốc sư Huyền Quang. Đến chùa Vân Yên, ở nhờ một bà vãi già, tự xưng là con gái nhà dân, xin được học đạo tôn sư.Bà vãi già sai thiếp dâng nước chè lên cho Sư. Được hơn một tháng,Sư không hề nhìn, liếc,hỏi han gì cả.Một hôm vào buổi tranh tối, tranh sáng,Sư lên tụng kinh, đến canh ba,Sư và Tăng Ni ai nấy về phòng mình để ngủ.Thiếp bèn đến cạnh phòng của Quốc sư để nghe xem động tĩnh, thì thấy Quốc sư ngâm bài lệ rằng:
“Vằng vặc giăng mai ánh nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh.
Người hòa tươi tốt, cảnh hòa lạ,
Mâu Thích Ca nào thửa hữu tình”.
Ngâm đi, ngâm lại mãi.Thiếp bèn vào tăng phòng, từ biệt Sư để về nhà thăm cha mẹ, hẹn sang năm sẽ quay lại học đạo.Sư bèn giữ lại ngủ một đêm,rồi cho thiếp một dật vàng.
Nhà vua nghe lời tâu thì bực bội, không vui mà nói rằng:
-Việc này nếu quả có thực thì đó là vì ta giăng mắc lưới vây ở cửa tổ chim mà bắt chim vậy.Nếu việc không có thực thì Quốc sư khó tránh khỏi phải chịu đựng mối ngờ đối với người sửa dép vườn dưa vậy.
Bèn mở hội Vô Già ở phía tây kinh thành, cho mời Sư đến,giao cho giữ ngôi mật án pháp trong lễ hội ấy.Cà-sa,y bát,pháp khí, tất cả đều đem ra dùng; đồi mồi, vàng bạc, châu báu la liệt đem ra trang hoàng.Sư thấy vua mời, bèn về kinh thành yết kiến.Hôm sau, sáng sớm, Sư đến đàn làm lễ.Bốn đàn lễ đều căng lụa quyến vàng,tạp vật thuộc các loại, đèn hương của sáu lễ cúng đều bày biện đầy đủ cả.Sư đã biết bữa trước bị nhà vua sai cung nữ đến thử mình,ngẩng mặt lên trời than thở, lên đàn ba lần, đứng trống trải giữa đàn,vọng bái hiền thánh mười phương, tay trái cầm bình ngọc trắng, tay phải cầm cành liễu xanh, miệng thầm niệm chú,rưới nước phép từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, khắp đàn làm lễ.Bỗng thấy một đám mây đen từ phương tốn hiện lên,bụi cát bay che mù mịt cả bầu trời, chỉ một lát lại tan hết.Tất cả các tạp vật trên đàn làm lễ đều bay đi mất sạch,chỉ đèn hương của sáu phép cúng là còn lại mà thôi.Các đạo tràng và tất cả mọi người xem hội đều kinh sợ, thất sắc.Vua thấy phép của Quốc sư thông cảm đến cả trời và đất,bèn rời chiếu lễ, đến lạy tạ lỗi trước Quốc sư.Vua giáng Thị Bích làm phu quét rửa chùa Cảnh Linh ở trong cung.Từ đó càng thêm tôn kính nhà sư, gọi là Tự Pháp,nghĩa là người nối dõi Phật Pháp”.
(Văn học VN-Đinh Gia Khánh chủ biên-NXB.GDXH-2001)
Khảo dị 3:
Sau đây là thêm một số truyền thuyết về Tổ Huyền Quang.
A.Câu chuyện nàng Điểm Bích với Sư Huyền Quang chỉ là dã sử lưu truyền…
Theo chuyện kể của Đỗ Đình Thọ thì đây là: “Nghi án văn chương về một thiên tình sử”.
Về sự thật của mối tình ấy, không ai kết luận được.Có điều lạ là có người đời vẫn không quên nàng.Nhà thơ Phạm Đình Hổ kể rằng:Vào thời Cảnh Hưng (1970), mộ nàng Điểm Bích ở làng Hoạch Trạch (huyện Cẩm Bình),khi đào lên thấy áo quan vẫn còn sơn son y nguyên.Mở ra xem, trong quan đầy nước trong veo,hương thơm ngát mũi, liền đậy lại.Nên có nhiều nhà thơ ca ngợi nàng…Trong đó có bài của Nhữ Công Chân:
Tăng hương tiêu phòng,khoa yểu điệu
Khước lai sơn tự,bạn không thiền.
Nghĩa là:
Phòng khuê thuở trước từng khoe đẹp
Chùa núi sau này, tựa cảnh không…
Về sau Binh bộ Thượng thư Ninh Tốn khi qua Yên Tử đã để lại vần thơ viếng nàng, đầy lòng thương cảm…
Bích nương từ buổi biệt sơn môn,
Muôn thuở còn ghi, nỗi tủi hờn.
Muốn mượn xạ lan,xông cửa Phật.
Đâu ngờ cây đá,khóa thiền quan.
Giai nhân không sức, gây nền Pháp,
Nước tịnh hiềm chi, giả sắc oan
Du khách bồi hồi, tìm dấu cũ
Giã từ chẳng giữ, chút hương tàn…
Vậy còn mối tình của nàng với Huyền Quang với chủ mưu là tìm cách tỏ tình với Huyền Quang,nhưng luôn bị Huyền Quang lảng tránh.
Một hôm thấy Điểm Bích đang trầm tư ngồi thêu bên cửa sổ, Huyền Quang tức cảnh sinh tình làm bài thơ:
Giai nhân tức sự,
Nhị bát giai nhân, thích tú trì
Tử Kinh hoa hạ, chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn, thương xuân ý
Tân tại đình châm,bất ngữ thi.
Dịch thơ:
Mười sáu giai nhân, bỗng ngập ngừng
Đôi oanh thỏ thẻ, gốc hồng nhung,
Chạnh niềm tâm sự, thương xuân quá…
Mũi chỉ đường kim, khoảng khắc dừng…
Đọc thơ của Huyền Quang, Điểm Bích sung sướng thấy ông là vị sư có tâm hồn phóng khoáng, nhập thế, yêu đời thương người…nên nàng lại tìm cách tỏ tình, nhưng Huyền Quang vẫn cứ im lặng.Nàng bực mình làm một bài thơ tỏ vẻ khiêu khích…(đã dẫn ở trên).
Xem thơ Điểm Bích, Huyền Quang gật gù tỏ ý khen…Điểm Bích lại tiếp tục tỏ tình, để tỏ tài chinh phục.Nhưng rồi Huyền Quang vẫn cứ mô Phật, lặng im.Tức quá, nàng bèn nghĩ kế đánh lừa (như truyện đã nêu).
Như vậy thực hư thế nào…chỉ có Huyền Quang và Điểm Bích mới biết.
Theo xu hướng bảo vệ danh dự cho Đệ tam Tổ Trúc Lâm, nhân dân thời đó đã đặt ca dao để minh oan cho Ngài:
Dù cho tát cạn Bình Than,
Cũng không rửa được nỗi oan cho thầy.
B.Sự tích về Huyền Quang
Cũng tại nơi đây, năm Quý Sửu (1313),khi ông Trụ trì tại chùa Vân Yên, đã để lại một sự tích.
Một hôm,vua Anh Tông bảo quần thần và Tăng nhân rằng: “ Người ta sinh ra ở đời ăn của ngon, yêu sắc đẹp, người nào cũng có lòng dục.Chúng ta vì dốc lòng học đạo, mà phải ức chế, nhưng cũng chỉ được một phần mà thôi.Nay xét Lão tăng Huyền Quang, theo lẽ sắc sắc, không không, yên lặng như nước không sóng, trong sáng như gương không bụi, như thế là sự ức chế được lòng dục, hay không có lòng dục?”Học sĩ Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi tâu: “Hoạ hổ họa bì,nan họa cốt.Tri nhân tri diện,bất tri tâm (Nghĩa là:vẽ hổ, vẽ da,khó vẽ được xương.Biết người ,biết mặt, không biết được lòng dạ thế nào.)Hãy cho thử xem,thì mới biết hay dở.”Vua nghe theo.
Bấy giờ trong triều có một cung nữ đang tuổi thanh xuân, tài sắc hơn người.Quê nàng ở huyện Đường An,mẹ nàng góa chồng từ khi còn trẻ.Bà đến chùa Quỳnh Lâm lễ Phật, đêm ngủ lại chốn Thiền môn, có người đàn ông không quen biết, đến gian díu.Sau đấy bà có thai, sinh con gái,dân gian gọi là em bé Quỳnh Lâm.Em lớn lên, ngày càng xinh đẹp, thông minh và ham học.Chín tuổi được tuyển làm cung nữ, vua khen là nữ thần đồng, đặc biệt có tài thơ Nôm.Người đó là Điểm Bích.Vua chọn Điểm Bích là người kiểm nhiệm sự chân tu của Huyền Quang.Trước lúc nàng ra đi, Vua dặn: “Phải lấy được thỏi vàng của Huyền Quang, nếu Lão tăng còn tình dục”.
Từ kinh thành Thăng Long, Điểm Bích ra đi cùng một tiểu tỳ.Trèo đèo,suối mấy lần,nàng đến được chùa Vân Yên,xin ở nhờ một vãi già,lấy cớ xuất gia học đạo.Ngày ngày nàng mang nước đến chỗ Huyền Quang.Hy vọng với sắc đẹp rực rỡ,dáng điệu uyển chuyển của nàng sẽ làm thức dậy cuộc sống trần tục của Lão tăng.Qua nhiều lần tiếp xúc,Huyền Quang như không để ý đến người con gái xinh đẹp, dịu dàng, nhưng ông cũng hiểu nội tâm nàng.Ông khuyên Điểm Bích hãy trở về, khi nào cao tuổi mới tu được.Con người thông minh như Điểm Bích không cam chịu thất bại.nàng bèn nghĩ ra một kế.
Một hôm,nàng tự xưng là con quan Tri huyện Cẩm Hóa,cha nàng mang mười lăm cân vàng đi nộp công khố, không may bị kẻ gian lấy cắp,may nhờ người thân giúp đỡ đã gần đủ.Nay muốn nhờ Lão sư phát tâm làm phúc cho chút đỉnh, để nàng trọn đạo với cha,nếu không cha nàng sẽ mang tội.Huyền Quang nghĩ rất thương tình,bèn nói với các Tăng Ni: “ Ta nhân vì người này, để mang quảng đức hiếu sinh của Hoàng đế và làm một lương đồ cứu khổ cho dân chúng”.Một tiểu Tăng nói: “Pháp luật là công cộng của thiên hạ.Kẻ có của không biết giữ cẩn thận, theo pháp luật mà trị là điều lệ công.Nay ta đem vàng công đức để lấy ơn riêng, vậy có nên chăng?”.Lão tăng thấy nói thế cho là phải,song vẫn lấy một nén vàng của riêng mình cho Thị Bích.
Lấy được vàng, Điểm Bích trở về kinh đô,dựng lên một chuyện hoàn toàn khácsự thật.Nàng tâu vua: “ Một hôm sư lên chùa tụng kinh, đến trống canh ba, sư cùng các Tăng Ni về phòng ngủ.Thần thiếp đến bên cạnh phòng của sư xem sư làm gì.Thấy sư ngâm một bài kệ rằng:
Vằng vặc trăng soi đáy nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh,
Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ,
Mâu Thích Ca nào, thử hữu tình…
Sư ngâm nga mấy lần, thần thiếp thấy sư còn thức, vào phòng xin phép sư về thăm cha mẹ, sang năm lại đến học đạo.Sư giữ thần thiếp lại một đêm, và chomột nén vàng”.
Nghe xong,Vua uất ức nói: “ Nếu việc ấy có thật, thì ta đã đạt được mưu kế là giăng lưới bắt chim.Nếu việc ấy không có, thì Lão tăng cũng không tránh khỏi bị nghi ngờ qua ruộng dưa mà sửa giày”.
Thấy Vua nói thế, Thị Bích chột dạ! Nhất là sau đó ít lâu, sự việc nàng tâu trình lộ ra.Thị cảm thấy trong cung mọi người muốn xa lánh Thị…Thực ra người khen nàng cũng có,là có tài đánh gục được Lão tăng về tình đời…nhưng người chê và nghi ngờ việc làm của Thị thì nhiều…khiến nàng rất ân hận,và tâm trạng bất an, chưa biết giải thoát bằng cách nào…
Cũng thời điểm đó,Vua sai mở hội Vô Già ở phía tây kinh thành, mời Huyền Quang về làm án pháp.
Sư về đến Thăng Long, thấy sự thể, biết mình đã bị lừa…Sư ngửa mặt lên trời than vãn, lạy ba lần, cúi xuống đất, lạy ba lần, rồi lên lễ đàn, đứng vọng bái mười phương.Vua thấy hình pháp của Sư còn “thông thấu lòng người, cùng trời đất”…
Bỗng phía cuối đàn, nơi cung tần chầu lễ, có tiếng khóc nấc lên…Vua cho quan Thái Giám tới hỏi nguyên do…Sau đó Vua được biết: đó là tiếng khóc hối hận của Thị Bích, sự việc của Lão tăng không phải như vậy, nay Thị Bích xin tự thú về sự việc tâu trình sai sự thật của mình…chỉ xin vua tha tội chết.
Vua liền lên đàn xin lỗi Sư và ra lệnh giáng Thị Bích làm người quét chùa Cảnh Linh trong nội điện…
Sau vụ giải oan ở Thăng Long, Huyền quang trở lại vùng Đông Bắc tiếp tục tu hành,viết sách và giảng đạo.
Kể rừ sau khi Pháp Loa tịch diệt, sự nghiệp Thiền phái Trúc Lâm do Huyền Quang chủ trì và trở thành vị Tổ thứ ba của Thiền phái này.
Để ghi nhớ công ơn, đời sau đã đúc tượng Trúc Lâm Tam Tổ ngự trên tòa sen:
Pho ngự ở giữa, đức vua ta,
Bên trái là tượng ngài Pháp Loa
Huyền Quang tay phải, Đệ tam Tổ,
Tấm lòng nhân ái, tỏa bao la…
Sau đó Huyền Quang về tu ở chùa Thanh Mai (huyện Chí Linh) sáu năm,rồi vềchùa Côn Sơn, lập đài Cửu Phẩm Liên Hoa,biên tập nhiều kinh sách truyền lại cho đời sau.
Ngày 20 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Lão tăng viên tịch tại Côn Sơn, hưởng thọ 81 tuổi.Vua Trần Minh Tông cho mười lạng vàng xây tháp cho Lão sư ở phía tả (sau chùa Côn Sơn) đặc phong tự pháp Huyền Quang Tôn giả.
C.Ba huyền thoại về Tam Tổ Huyền Quang
Thứ nhất:Thân phụ Ngài là Huệ Tổ, dòng dõi nhà quan, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ thích ngao du sơn thủy, tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, nhưng không nhận làm quan.Thân mẫu Ngài họ Lê là người hiền đức.
Năm Ngài sinh, ở phía Bắc gần nhà, có chùa Ngọc Hoàng, một hôm thầy Trụ trì ở đó là Thiền sư Huệ Nghĩa, tối tụng kinh trên chùa xong, về tại phòng ngồi nghỉ, chợt ngủ thiếp đi, mộng thấy, trên chùa đèn nến sáng trưng, Chư Phật hội tụ rất đông…thấy Phật chỉ Tôn giả A Nan bảo: “ Người thách sinh làm pháp khí cõi Đông”.Chợt có người gõ cửa, Thiền sư chợt tỉnh giấc, liền làm bài kệ viết lên vách chùa: (Bản dịch)
Người mà vì đạo, chớ tìm đâu,
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu
Mộng thấy điềm lành, là ảnh hưởng
Đời này ắt gặp bạn tâm đầu…
Có sách nói “Thuở nhỏ Ngài dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời”nhưng có điều nói rằng kỳ lạ thì hoặc là đẹp hay là không có sắc diện như người bình thường.
Nên đến năm Ngài hai mươi mốt tuổi, thi đỗ Trạng nguyên.Cha mẹ có dạm hỏi vợ cho Ngài, nhưng chưa cưới…sau khi thi đỗ, nhà Vua định gả Công chúa cho,Ngài từ chối, nên có chỗ nói rằng:tuy có dạm hỏi, nhưng không được người ta ưng thuận, nên Ngài hơi buồn.Vì thế khi thi đỗ,Vua định gả Công chúa cho, Ngài từ chối và than:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng, tám nghìn nhân duyên
Thứ hai:Khi bị nạn Cung phi Điểm Bích ( như truyện kể phần trên)có sự thần bí trong cầu cúng…
Chuyện rằng:Sư thấy sứ thỉnh,liền về triều yết kiến.Sơm hôm sau,sư vào đàn tràng thấy bốn bên bọc lụa vàng, trên bàn bày các tạp vật cùng hương đăng hoa quả.Sư biết là do cung nữ thử mình ngày trước,liền ngửa mặt lên trời than thầm, lên xuống đàn ba lần ,rồi đứng giữa đàn vọng bái thánh hiền mười phương.Tay trái cầm bình bạch ngọc, tay phải cầm nhánh dương xanh mật niệm và tẩy tịnh trong và ngoài đàn tràng.Bỗng một đám mây đen từ phía Đông Nam ùn ùn kéo tới, bụi bay mù mịt ngất trời, một lát thì dứt.Lạ thay!Các thứ tạp vật bị gió cuốn đi hết, chỉ còn lại hương đăng lục cúng.Các đạo tràng và những người xem hội, ai nấy thất sắc kinh hoàng.
Vua thấy hạnh pháp của Sư thấu đến trời đất, liền rời chỗ ngồi lạy xuống để tạ lỗi Sư,rồi phạt Điểm Bích.
Từ đó vua càng tôn kính và gọi sư là Tự Pháp.
Thứ ba: Sự kỳ lạ của quyển Tổ Gia Thực Lục (là quyển sách trong gia tộc viết về Ngài).
Khi quân nhà Minh sang xâm chiếm nước ta, gom hết sách đưa về nước ( trong đó có quyển Tổ Gia Thực Lục).Viên quan đó để trong nhà, một hôm thấy Ngài Huyền Quang hiện lên, bảo đem trả quyển sách đó cho Việt Nam, nhưng rồi ông chết.
Sau này có một vị quan Việt Nam sang sứ Trung Hoa thì người cháu bốn đời viên quan kia trả lại quyển sách và kể lại chuyện trên…
(Sự tích Tam Tổ Trúc Lâm của Nguyễn Thi-Hội Văn nghệ Uông Bí tái bản lần thứ 7).

37.SỰ TÍCH NHÀ SƯ VÀ CÁ KÌNH

Một nhà sư trụ trì đã lâu năm mà chưa thành chính quả.Một hôm mộng thấy thần linh bảo phải đi đến nước Phật để tìm một câu tụng niệm,rồi tự mình tụng lấy thì đắc đạo.Sư ra đi với một đám đệ tử.Nhưng đường xá gian nguy,các đệ tử rơi lại dọc đường,còn một mình Sư vẫn không nản chí. Đến bờ biển Đông không có thuyền bè nào dám chở.Một con cá kình ngẫu nhiên qua đó ghé cho Sư lên.Biết sư đi tìm Phật,Cá nhờ hỏi Phật cho một câu.Sư ta nhận lời(nhưng như vậy là phạm lỗi vì đáng lý phải ngậm thinh).Cá nói mình đã sống một nghìnmột trăm năm nay và gần đây để chuộc lỗi lầm cũ,không hề ăn một con tép nhỏ,không hiểu sao chưa thành chánh quả.Sư sợ cá bỏ mình dọc đường (ý nghĩ đó là phạm lỗi lầm thứ hai),nên tuy biết không thể hỏi được nhưng hứa liều (phạm lỗi lầm thứ ba).Cám ơn Sư, Cá chở đến tận bờ. Đến nơi, Sư nhận được của Phật một cuốn kinh, trong đó có câu tụng niệm, nhưng vì lỗi lầm làm mờ ám,Sư chỉ đọc được câu đầu sách và lập đi lập lại: “Nam-mô A-di-đà Phật”.Sau đó Sư bỏ kinh vào đãy ra về.Đến bờ biển gặp con Cá kình cũ,Sư lại trèo lên lưng cho nó chở về. Đến nơi, Cá hỏi,Sư run rẩy vì lỗi lầm của mình nên đánh rơi cả đãy.Cá tưởng Phật cho mình bèn nuốt chửng đãy kinh rồi đi luôn.Sư bước lên bờ: Đây là đảo Phú Quốc.Sư dừng lại ở đây trú tì và sau đó ghi lên hàng núimột câu: “Kẻ đệ tử đã đi sang Tây Trúc tìm được câu tụng niệm là: Nam-mô A-di-đà Phật”.[21]

38.SỰ TÍCH 18 ÔNG PHẬT LA HÁN

Ngày xưa,có một người giàu có và đức hạnh,có nuôi một con ngựa đẹp,nước chạy hay nhất trong xứ. Đặc biệt hơn nữa là con ngựa biết nói tiếng người và đoán được cả việc tương lai.Người nhà giàu chăm nom,thương mến con ngựa như tình cha con.
Một hôm ngựa nói chp chủ hay:
-Ngày mai sẽ có một bọn cướp mười tám đứa đến đánh nhà này để lấy của. Ông đừng sợ gì cả,vì tôi đã có cách đối phó với họ. Ông cho giết mười tám con lợn sữa quay lên rồi dọn ra ở bàn với xôi và thức ăn cùng một vò rượu. Đợi đến giờ Tý, ông đi đón bọn cướp ở ngã tư,rồi mời họ về nhà ăn uống, họ sẽ nhận lời mời,và sẽ không làm hại gì ông đâu.
Người nhà giàu vốn rất tin ở ngựa, đã nhiều lần biết trước được lắm việc đúng, nên không do dự nghe theo.
Việc xảy ra quả y như lời ngựa nói.Bọn cướp sau khi ăn uống no say, mới hỏi chủ làm sao mà biết trước họ đến nhà để dọn đúng bữa tiệc cho mười tám người ăn.Chủ nhà bảo chính con ngựa báo trước cho hay số cướp đến bao nhiêu người, mục đích họ lại định làm hại ông ta ra sao.
Bọn cướp lấy làm ngạc nhiên,lo ngại,tỏ ý muốn xem con vật dị thường.Chủ nhà dẫn họ đến chuồng ngựa.Tên cầm đầu bọn cướp mới hỏi con ngựa:
-Sao mày biết trước được chúng tao đến nhà mà báo cho chủ hay?
Ngựa đáp:
-Tôi không phải là một con ngựa như các người tưởng đâu.Trước đây tôi cũng là người như các ông,một người ngay thẳng nhưng nghèo khổ.Tôi bị thiếu tiền chủ tôi mà trước kia ông là ân nhân của tôi.Tôi khó nhọc làm việc ngày đêm để trả nợ,song nửa chừng thì chết.Xuống âm phủ,Diêm Vương nhận thấy tôi là người ngay thật,song trước khi cho đầu thai trở lại làm người, tôi phải hóa kiếp làm ngựa để đền bù trả hết nợ tôi còn thiếu lại của chủ.Vì vậy nên các ông mới thấy tôi làm ngựa như thế này.Ngoài ra số nợ kiếp trước như tôi vừa nói,kiếp này chủ tôi săn sóc chu đáo, đối đãi tử tế, không để cho tôi thiếu thốn gì hết,bởi thế nên tôi thấy có bổn phận,không được lặng im như các loài vật khác,mà còn phải nói ra báo trước cho chủ tôi hay những sự không may có thể xảy đến giúp chủ tôi tránh đỡ tai họa.
Những lời nói thốt ra từ miệng con ngựa lay động đến đáy lòng bọn cướp.Họ bảo nhau:
-Con ngựa ngay thật như thế mà còn phải hóa thân làm ngựa để trả nợ dỡ dang kiếp trước,còn chúng mình bấy lâu chỉ sống bằng cướp của giết người, không biết rồi đây phải thế nào nữa?Chết xuống âm phủ là chắc chắn chúng mình sẽ phải chịu hình phạt ghê gớm lắm.Có lẽ chúng ta còn có ngày giờ để hối cải mà chuộc lại bao nhiêu tội lỗi đã gây nên.
Nghĩ thế rồi bọn cướp cáo từ ngựa và cám ơn ông chủ mà đành rút lui.Về đến sào huyệt,tên cướp bảo nội bọn:
-Anh em ơi,tội lỗi của chúng ta đã đầy đầu đầy cổ,ngay từ lúc này,tôi quyết tâm cải tà quy chánh,trong anh em ai nghĩ như tôi thì đưa tay lên?
Tất cả bọn cướp đều giơ tay.Tướng cướp nói thêm:
-Trước khi vào chùa để sám hối,ta cũng nên xem Phật có thuận lòng cứu vớt chúng ta không.Anh em hãy mang một nồi nước sôi lớn ra đây, bỏ những đồ nghề ăn cướp mà đun lên.Trong khi đó, chúng ta quì sấp mặt xuống đất mà khẩn cầu đến chư Phật.Nếu hết ngày hôm nay mà đồ nghề chúng ta đều tiêu tan hòa theo nước thì đó là triệu chứng lời thỉnh của chúng ta được như ý nguyện.
Cả bọn cướp đều làm y theo lời đó.
Đến tối lại, bọn cướp đứng lên giở nắp vung ra, mừng rỡ thay trong nồi chỉ toàn là nước.Mười tám tên cướp cạo đầu đi tu.Từ đó thành khẩn ăn năn sám hối cho đến chết được thành chánh quả làm mười tám vị La Hán.
Do đó mà ở trong các nhà chùa ngày nay, người ta vẫn thấy tượng 18 vị La Hán bao giờ cũng đứng chung với nhau,song mặt mũi vẫn dữ tợn,vì lẽ nhiệm mầu của Phật chỉ thay đổi lòng dạ của họ thôi.Mười tám vị La Hán còn cầm ở tay các đồ ăn cướp là để nhắc nhở cho người đời rằng sự hối cải chân thành có thể xóa bỏ các tội lỗi đã gây nên.
Khảo dị
Một người đàn bà đẻ được 18 người con trai.Lớn lên chúng rủ nhau đi ăn cướp.Hồi đó có một phú trưởng giả hay bố thí, nhất là đối với học trò nghèo.Mộthôm có một anh học trò đến xin tiền,phú trưởng giả cho luôn một lúc hai mươi quan và còn cho mượn ngựa trở về,hẹn lúc đến nhà sẽ thả ngựa ra là sẽ tìm về chuồng cũ.Bất đồ đi được nửa đường,ngựa sinh chứng không chịu đi nữa,quăng người và tiền xuống đất rồi trở về.
Anh học trò chưa biết tính như thế nào, bỗng có 4 tên ăn cướp đến đánh chết, đoạt lấy của.Như truyện trên, chúng chia nhau một người 10 quan còn 10 quan cắt hai đứa đi mua rượu thịt và kết cục cũng giống như trên.Nghĩa là hai đứa bị đồng lõa giết chết,còn hai đứa kia uống thuốc độc vào cũng chết luôn.
Thấy ngựa trở về quá sớm,phú trưởng giả sinh nghi, mới sai người đi tìm.Khi biết được sự thật, phú trưởng giả suy tính:
-Năm mươi quan làm chết năm mạng, vậy trong nhà có ba trăm ngàn quan thì sẽ làm chết bao nhiêu ngàn người mà kể.
Mới sai người mang thuyền đem tiền đi đổ sông.Vừa gặp 18 tên cướp khác toan cướp giật.Họ kể đầu đuôi cho nghe.Mười tám người kia ăn năn,bèn nhảy xuống sông chết một lượt.Phật đưa lên Nát bàn thành 18 vị La hán.[22]

39.NGƯỜI ĐI TÌM KINH PHẬT hay SỰ TỊCH CON CÁ TRÊN CÁI MÕ

Ngày xưa ở đất miền nam, có một nhà sư dốc một lòng tu hành, tên là Nguyễn Được.Một hôm nhà sư nằm mộng thấy Bồ-tát hiện ra bảo rằng:
-Ngày mai ngươi cùng các môn đệ hãy đi về hướng Tây.Nếu người vượt qua được những gian lao, khổ hạnh trên đường thử thách thì sẽ thấy chân kinh,và độ được chân kinh thì sẽ đắc đạo thành chánh quả.
Hôm,sau nhà sư theo lời báo mộng,cùng các môn đệ lên đường nhằm về hướng Tây mà đi.Ngày đi đêm nghỉ, đoàn người áo vàng lặng lẽ chân dầm đất,tay lần tràng hạt,theo đúng lời phát nguyện ra đi là không ai thốt ra lời nào trước khi tìm thấy chân kinh.Họ không quản nắng mưa, đói khát,sống nhờ của thập phương.Mỗi khi họ đi ngang qua các làng,dân chúng đem thức ăn thức uống ra đứng hai bên đường chực sẵn để trút vào bát của đoàn Phật tử.Có khi họ đi hàng mấy ngày không gặp ai, đành nhịn đói,chịu khát, hoặc hái hoa trái bên đường cho đỡ dạ.Con đường đi càng dài,hàng ngũ các môn đệ càng thưa dần.Người vì bệng tật không thể lê chân được nữa.Người xét mình kiếp này còn vụng đường tu,khó lòng đi tới nơi để thành đạo, đành dừng lại ở một nơi để tu hành.Người thì thấy đường dài khó khăn,mất dần lòng tin mà quay trở lại.
Cho đến một ngày kia, chỉ còn trơ trọi một mình nhà sư trên con đường vắng vẻ đi về phương Tây.Các thần linh hiện ra giúp nhà sư vượt qua những trở ngại chồng chất liên tiếp ở trên đường.Có khi vừa lên một đỉnh của ngọn núi khác,khỏi phải xuống núi hiểm nghèo,rồi khỏi phải lên khổ nhịc.Mặc dù ngăn núi, cách sông, đường đi muôn vàn trở ngại,nhà sư cũng vẫn quyết một lòng đi cho đến đích.Dấu chân nhà sư ngày nay còn in lại trên mặt đá các ngọn núi đã đi qua.
Một hôm nhà sư đến trước bờ biển không trông thấy thuyền bè, không mộtbóng người và trước mặt là biển cả mênh mông.Nhà sư vẫn không nản chí, lòng tưởng đến Phật, chân cứ bước tới,nhủ rằng niềm tin sẽ giúp mình vượt khỏi trùng dương.Thế rồi nhà sư đi xuống nước,sóng khỏa đến nửa thân,bỗng thấy một con cá kình bơi vào, đưa lưng mời nhà sư ngồi lên.Nhà sư điềm nhiên ngồi lên lưng con cá lớn nổi tiếng ăn thịt người, để cho cá phóng chở ra khơi.Ban ngày cá kình theo hướng mặt trời, ban đêm theo hướng sao,cứ thế mà bơi theo hướng thẳng mà về phương Tây.Gặp hôm nắng cháy thiêu người,có từng đoàn hải điêu bay đến tụ họp trên đầu nhà sư để làm bóng che như một đám mây.Buổi chiều có từng đàn ong bay đến đem mật đặt lên môi nhà sư.
Cá kình chở nhà sư đi đã không biết bao nhiêu ngày, đến một hôm bỗng dừng lại nói rằng:
-Mô Phật, nhà sư đi tìm chân kinh để đắc đạo có thể nghe lời thỉnh nguyện của tôi được không?
Nhà sư trả lời: “Được”,quên rằng mình đã phạm vào lời nguyện giữ yên lặng cho đến khi tìm thấy chân kinh.
Cá kình kể lể:
-Từ ngàn năm nay, tôi đã trường trai để chuộc tội lỗi trước kia.Tôi bị bắt buộc phải ăn thịt trong khi tôi đã kinh sợ mùi thịt và đã quên cả vị của cá tôm.Xin nhà sư hãy cầu nguyện cùng đức Phật cho tôi thoát khỏi vòng khổ ải này.
Nhà sư đáp lại: “Được”.Thế là phạm vào lời nguyện thứ hai.
Kình ngư lại tiếp tục bơi về phương Tây hết một hôm thì đến bờ.Nhà sư Nguyễn Được lại lên bờ,liền thấy một ngôi chùa bỏ hoang,trong có để một đống sách kinh, như có ý để dành cho người tu hành tìm đến.Trong pho sách Phật có chân kinh,song nhà sư đã hai lần phạm vào lời phát nguyện nên chỉ đọc được có mộtcâu đầu: “Nam mô Bổn sư Thích Ca mâu ni Phật”.
Nhà sư không nản chí, gấp kinh lại,bỏ vào đãy rồi trở ra bờ biển, lên lưng cá kình trở về.Trong khi vượt biển, sư mãi mê theo lời kinh đã đọc được,không để ý đến vẻ buồn rầu của kình ngư.Lúc thấy đất liền,cá kình ngư dừng lại hỏi rằng:
-Nhà sư có nhớ đặt lời nguyện của tôi lên đức Phật chăng?Tôi còn phải ở trong vòng khổ ải trầm luân này bao lâu nữa?
Nguyễn Được đang thiền định, nghe nói giật mình,đánh rơi cả đãy đựng kinh xuống biển.Cá kình ngỡ là vật cứu rỗi của nhà sư ban cho liền đớp lấy nuốt cả vào bụng cả pho chân kinh.
Nhà sư lảo đảo bước lên bờ,chân bước đi miệng vẫn thì thầm câu kinh đã học được,không ngờ cá kình ngư đã đưa mình lên đảo Phú Quốc.Trong mấy năm còn sống, nhà sư ngày đêm vẫn thắc mắc cuốn chân kinh. Đến khi gần tịch,Nguyễn Được khắc lên trên đá núi Bãi Sạp và núi Thạch Động câu kinh của mình đã học được.
Về sau, để ghi nhớ việc tìm chân kinh đã xảy ra cho thầy và mong thầy sớm được Phật độ, các môn đệ bèn lấy gỗ chạm hình con cá kình để làm mõ tụng kinh.Rồi từ đó,các nhà tu hành mỗi khi tụng kinh đều gõ vào đầu mõ cá kình, nhắc lại câu: “Nam-mô Bổn sư Thích-ca mâu-ni-Phật”.[23]

40. SỰ TÍCH CON DÃ TRÀNG

Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng.Trong vườn họ có một hang rắn.Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang.
Một hôm,con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn vào thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong.Vì mới lột nên mình mẩy của nó yếu ớt,không cựa quậy được.Một lúc lâu, rắn chồng bò về,miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn.
Ít lâu sau,Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình.Lần này rắn chồng đến kỳ lột,nằm im thiêm thiếp,lớp da cũ còn bỏ lại bên hang.Hồi lâu rắn vợ trở về,theo sau có một con rắn đực khác khá lớn.Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng.Một lát sau con rắn đựcmột mình bò vào hang.
Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Ông cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bỏ con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược.Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhắm con rắn đực mới đến,bắn ngay một phát.Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất.Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái, nhưng trong cái thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà.Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữa.
Chừng dăm ngày sau,một hôm.Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ nghe và vui miệng, ông kể luôn những việc mình đã thấy và đã làm. Ông vừa kể dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì.Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn gần chỗ ông nằm,miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói: “Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù.Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi.Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm,xin tặng ông viên ngọc nghe này.Đeo nó vào mình thì có thể hiểu được mọi tiếng chim muông ở thế gian.”
Từ kinh ngạc đến sung sướng,Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời.
Một hôm,Dã Tràng đang hái rau,tự dưng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn rau nói chuyện lao xao.Chúng nó bảo Dã Tràng thế này: “Ở núi Nam có mộtcon dê bị hổ vồ.Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi.” Dã Tràng làm theo lời quạ,quả thấy xác một con dê trên núi Nam.Ông xẻo lấymột ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để lại bộ ruột dê lại cho bầy quạ.Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá,thành ra họ lấy hết cả chẳng chừa một tí gì.
Lũ quạ không thấy ruột dê,cho là Dã Tràng đánh lừa,bèn đổ xô đến vườn ông réo lên om sòm.Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã làm hại mình,không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe,cứ đứng đó chửi mãi.
Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng, chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết.Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân,liền cắp mũi tên có đề tên Dã Tràng ở đuôi,tìm dịp báo thù.Lúc bay qua sống,thấymột cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào xác chết.Khi quan sở tại đến làm biên bản,thấy mũi tên,liền đoán Dã Tràng là thủ phạm,sai lính bắt ông hạ ngục.
Dã Tràng bị bất ngờ, hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông.Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng.Thấy vậy,quan sai lính giải ông về kinh để vua phân xử.
Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điều đi.Dọc đường trời tối,bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi.Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiếng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được.Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẽ bay qua ngang đầu nói chuyện với nhau:
-Nhanh lên!Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả.
Một con khác hỏi:
-Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế?
Con nọ trả lời:
-Của vua nước bên kia.Họ toan kéo sang đáng úp bên này.Ngày hôm qua,quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt.Nhưng xe thóc vừa đến biên giới thì bị sụp hầm đổ hết.Họ đang trở về lấy thứ khác cho nên chúng ta tha hồ chén.
Nghe đoạn,chờ lúc bọn lính thúc giục lên đường,Dã Tràng bảo họ:
-Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên bận tâm,mà giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi,và còn cấp bách nữa là khác.
Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm,chỉ nài rằng hễ có mặt quan,mình mới nói tỏ bày rõ ràng.
Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh,Dã Tràng liền cho họ biết rằng vua Hiến Đế phương Bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình.Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới,chỉ vì bị sụp hầm,xe lương đổ hết,chưa tấn công được.Bây giờ họ đang vận thêm lương,chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam.
Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng cố hỏi ông có dám chắc như vậy không.Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà cam đoan rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết.Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho.Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngả để lấy tin.Và nội ngày hôm sau,Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sai và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch.
Được tha,Dã Tràng đi bộ về quê nhà.Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa.Ông cho tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.
Gặp lại bạn cũ,vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết.Nghe tin ông bị tra tấn giam cầm và suýt mất đầu,hai vợ chồng rất cảm thương bạn.
Thấy bữa ăn tối thết bạn không gì,Trần Anh xuống bếp bảo vợ:
-Bạn ta đến,lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn.Sẵn có cặp ngỗng,con nó đã khôn,ta làm thịt một con,ngày mai đãi bạn lên đường.
Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng cắt tiết vặt lông giúp mình một tay.
Trong khi hai vợ chồng bàn tình thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện.Ngỗng trống bảo ngỗng mái:
-Mình ôi!Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ bắt.
Ngỗng mái không nghe,xin chết thay cho chồng.Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân giã từ đàn con:
-Con ơi! Các con ở lại với mẹ nghe.Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữa.
Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, đòi được chết thay chồng cho bằng được.
Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở.Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn,nhưng thấy bất tiện.Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.
Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ.Quả nhiên,vào khoảng canh tư Trần Anh thức dậy bước ra chuồng.Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt.Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói:
-Xin bạn thả nó ra.Tính tôi không hay sát sinh.Tình thân của đôi ta lo phải cỗ bàn mới thân.Nếu bạn giết nó thì thôi lập tức đi khỏi chỗ này.
Thấy bạn có vẻ quả quyết,Trần Anh đành thả ngỗng ra,rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn.
Cơm nước xong,Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấy.Ngỗng đực tặng Dã Tràng mộtviên ngọc và nói:
-Đa tạ ân nhân cứu mạng.Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này,mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ.Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển.
Ngỗng lại nói tiếp:
-Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn.
Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế,sung sướng nhận ngọc rồi về.
Khi đến bờ sông,Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc,liền cứ để nguyên áo quần đi xuống nước thì lạ thay, nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng xuống đáy sông.Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để thử xem thế nào.
Hôm đó,Long Vương và các triều thần đang hội ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung động,cơ hồ muốn đổ.Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ.Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò là sự tình.
Bộ hạ Long Vương theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước.Mỗi một lần khoắng như thế,họ cảm thấy xiêu người nhức óc.Tuy biết đích là thủ phạm,họ cũng không dám làm gì,chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ.
Gặp Long Vương,Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng.Long Vương và triều thần nghe nói,ai nấy đều xanh mặt.Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa!Vì thế Long Vương đãi Dã Tràng rất hậu.Ông muốn gì có nấy.Cho đến lúc ông ra về, Long Vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong ông nể mặt.
Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long Vương tiễn chân về tới nhà mới trở lại.Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có ai nấy cũng lấy làm mừng cho ông.Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông maymột cái túi đựng chúng và luôn luôn đeo ở cổ.
Một hôm,Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ.Lúc đến nơi,Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vội vàng quá nên ông đã bỏ quên mất cái túi ngọc ở nhà. Ông thấy không thế nào an tâm ngồi ăn được.Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi vội vã cáo từ về ngay.
Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả.Ông rụng rời cả người, đi tìm vợ,vợ cũng không thấy nốt.Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi.Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy do vợ viết để lại gài ở chổ treo áo.Trong đó, vợ ông nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ được phong làm hoàn hậu.Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông, đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi,không nên tìm làm gì cho mệt.
Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi.Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được, ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương thâm độc đến nước ấy.Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột.Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp biển thành một con đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ cả đường lối đến cung điện của Long Vương.Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe,bèn dọn nhà ra bờ biển để làm công việc đó.Ngày qua ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được.
Cho tận đến chết,Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc.Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con dã tràng,ngày ngay xe cát để lấp biển,Tục ngữ có câu:
Dã Tràng xe cát biển Đông
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.
Ngày nay, loài ngỗng sở dĩ không ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa.Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng để nhớ ơn cứu mạng.

41.TRUYỀN THUYẾT VỀ SƯ TỔ ĐỈA

Thiền sư Thiện Hiếu húy Đạo Trung thuộc phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong, thế hệ thứ 38,thường được gọi là Sư Tổ Đỉa.
Hiện chưa biết rõ tên tục,quê quán và hành trạng,chỉ biết rõ Tổ Đỉa là vị khai sơn chùa Linh Sơn trên núi Bà Đen (Tây Ninh) và chùa Long Hưng (thường được gọi là chùa Tổ) ở tỉnh Sông Bé.
Theo truyền thuyết,Thiền sư Thiện Hiếu mỗi khi từ chùa Bà Tang(?)đi qua chùaBà Đen (Tây Ninh) thường ghé nghỉ tạm dưới một gốc cây trâm ở ven “Bưng Đỉa” thuộc cầu Định (Thủ Dầu Một ngày xưa).Gọi là Bưng Đỉa vì vùng bưng này đất phì nhiêu nhưng có rất nhiều đỉa.Nông dân ở Bưng Đỉa nghèo nàn vì thiếu ruộng trồng lúa trong khi bưng lại bỏ hoang vì đỉa.Dù nghèo nhưng nông dân ở đây thấy sư thường nghỉ đêm ở gốc cây trâm ven bìa Bưng Đỉa nên phát tâm dựng cho sư một am tranh để nghỉ ngơi trên đường vân du hoằng hóa.Trong lúc đó, sư thấy dân địa phương có được một vùng đất bưng phì nhiêu và rộng lớn, nhưng lại phải bỏ hoang vì nạn đỉa nhiều.Một hôm,sư ra giữa bưng đỉa ngồi thiền để cầu nguyện cho các con đỉa ở đó được vãng sanh,cho bưng bớt đỉa hầu giúp dân chúng có thể làm ruộng trồng lúa được.
Khi sư ngồi thiền, đỉa bu quanh và bò lên mình sư rất nhiều, nhưng sư vẫn an nhiên tiếp tục ngồi như không.Trong các con đỉa bám vào mình sư,có một con đỉa trắng rất to(có lẽ là đỉa chúa) bò lên nằm ngay trên đỉnh đầu của sư.Sư vẫn tiếp tục ngồi thiền,con đỉa trắng to từ đỉnh đầu sư rơi xuống nước và chết, mộtsố đỉa nhỏ khác quanh đó cũng tự nhiên chết.Sau đó, vùng Bưng Đỉa,số đỉa giảm dần.Người dân địa phương bắt đầu xuống bưng làm ruộng được và dần dần vùng Bưng Đỉa bỏ hoang trở thành một vùng ruộng lúa phì nhiêu.Người dân địa phương nhờ có đất ruộng cấy lúa phì nhiêu.Người dân địa phương nhờ có đất ruộng cấy lúa trồng trọt được nên việc làm ăn phát đạt và sung túc hơn.Từ đó dân địa phương tôn gọi sư là Tổ Đỉa.Năm Giáp Dần (1794) dân địa phương bỏ am tranh của Tổ Đỉa,lập thành một ngôi chùa lớn, được Tổ đặt tên là Long Hưng nhưng dân địa phương ít gọi tên chùa Long Hưng mà thường gọi là chùa Tổ.
Theo lời truyền,Tổ Đỉa lập tất cả bảy ngôi chùa (hiện chúng ta chỉ biết haichùa:Linh Sơn và Long Hưng).
Ngày 20 tháng 12 năm Kỷ Mùi (1858 hoặc 1789) vào giờ Mùi,Tổ Đỉa viên tịch tạichùa Long Hưng. Đồ chúng lập tháp thờ trong khuôn viên chùa.
Tục truyền lúc còn đương thời,dân địa phương vì tôn quý sư nên gọi sư là Tổ.Sư không cho và dạy khi nào sư tịch đem thiêu nếu còn để lại một cánh tay thì hãy gọi sư là Tổ.Quả nhiên khi sư tịch đem thiêu còn lại một cánh tay,chứng tỏ sư là người đã đắc đạo.
(Theo Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ)
(Nghìn năm bia miệng của Huỳnh Ngọc Trảng và Trương Ngọc Tường,NXB.TPCM,1996).

42.SỰ TÍCH THẦN NÚI TẢN VIÊN

Ngày xưa,có một người tiều phu cứ sáng tinh mơ thì vác búa vào rừng đốn củi.Mọi lần,anh chặt một ít cây khô ở rừng, được nặng gánh thì trở về,nhưng lần này anh định chặt thêm một cây gỗ cứng để đem về chống túp lều tranh nên phải đi vào rừng sâu. Đang đi,anh chợt nghe có tiếng trẻ khóc.Anh dừng lại nghe xem tiếng khóc ấy ở đâu đưa lại thì thấy ở phía trước mặt,dưới một lùm cây to,có một con dê rừng lớn đang lấy chân trước bới một đống cỏ khô,tiếng trẻ khóc ở đống cỏ vọng ra.
Người tiêu phu rón rén đến nấp sau một gốc cây lớn ở gần xem con dê làm gì.Con vật bới đống cỏ rất nhẹ nhàng, lòi dần ra một đứa trẻ con đỏ hỏn,bụ bẫm,rồi nó nằm xuống cho đứa trẻ bú. Đứa trẻ rít lấy rít để bầu sữa căng.Mộtchốc,con dê đứng dậy liếm mớ tóc bờm xờm của đứa trẻ rồi chạy đi.Con dê vừa đi khỏi thì một đàn chim bay đến phủ những cỏ khô lên người chú bé,chỉ trong chớp mắt lại bay vù cả đi.
Người tiều phu lẩm bẩm một mình: “Số mệnh đưa trẻ nầy thật kỳ lạ”.Anh đến bới đống cỏ khô,thì thất là một đứa con trai.Anh bế lấy, đem về nuôi.
Đứa bé rất chóng lớn,người tiêu phu chăm nom như con đẻ của mình.Tin là đứa trẻ có một số mệnh kỳ lạ,anh đặt tên cho nó là Kỳ.
Lớn lên,Kỳ rất khỏe mạnh,ngày ngày Kỳ vác búa theo cha nuôi vào rừng đốn củi.Một hôm,Kỳ chặt một cây lớn đến hai người ôm,chặt từ sánh tinh mơ đến nhá nhem tối mà vẫn chưa xong nên đành bỏ dở ra về.Sáng hôm sau, đến gốc cây định chặt tiếp thì anh hết sức ngạc nhiên:cái cây lớn chặt dở hôm qua bây giờ lại liền ruột liền vỏ như chưa có một vết búa nào chạm đến.Thấy thế,Kỳ không ngả lòng,anh lại giáng những nhát búa thật mạnh vào chỗ thân cây đã chặt hôm trước.Tuy anh gắng hết sức,nhưng đến nhá nhem tối anh vẫn chưa hạ xong cây.Sáng sớm hôm sau,Kỳ lại vác búa định tiếp tục công việc còn bỏ dở thì anh thấy vết chặt hôm trước,hôm nay lại liền như cũ.Anh không nản chí,lại bắt đầu chặt,nhưng đến lúc trời sập tối,anh vẫn chưa chặt xong.Lần này anh không về.Anh leo lên một cây gần để rình xem ban đêm cây từ liền da liền thịt như thế nào.
Đến nửa đêm,trăng sao vằng vặc đầy trời,bỗng có một ông già chống gậy đi từ từ đến cái cây chặt dở. Ông cụ cầm gậy chỉ vào cây,trong chớp mắt vết chặt liền lại như cũ.Kỳ vội tụt từ trên cây xuống chạy đến hỏi ông cụ.
-Tôi khó nhọc mới sắp hạ được một cây lớn,sao cụ lại phá hỏng công việc của tôi như thế?
Ông cụ đáp:
-Ta là Thái Bạch tinh quân đây, ta không muốn ngưoi chặt cây cổ thụ này.Thôi ta cho ngươi cái gậy ngươi đi tìm cây nhỏ mà chặt.
Nói xong ông cụ trao cho Kỳ cái gậy chống ở tay rồi biến mất.Một hôm đi chơi men sông,Kỳ nhìn thấy con rắn lớn bị đánh dập đầu, đã chết từ lâu.Kỳ cầm gậy chỉ vào đầu rắn,thốt nhiên rắn sống lại vẫy đuôi,ngẩng đầu lên nhìn Kỳ rồi bò xuống sông mất.
Một buổi tối,Kỳ đang ngồi trong lều tranh thì một chàng thanh niên tuấn tú khăn áo chỉnh tề đem châu báu đến tạ ơn Kỳ.Chàng xưng là Tiểu Long Hầu,con Long Vương ở biển Nam,bị trẻ chăn trâu đánh dập đầu chết ở bờ sông và được Kỳ cứu sống hôm nọ.Kỳ nhất định không nhận lễ vật.Chàng thanh niên có ý băn khoăn,cố mời Kỳ xuống thủy cung chơi.Chàng đưa cho Kỳ một ống linh tê để rẽ nước đi xuống. Được Kỳ xuống chơi,Long Vương rất lấy làm mừng rỡ,mở yến tiệc linh đình thết đãi. Đến khi về,Long Vương đưa tiễn đủ các thứ vật lạ dưới biển,nhưng Kỳ nhất định không nhận.Sau Long Vương lấy ở tráp ra một quyển sách nói với chàng rằng:
-Người cứu sống con ta,ta không biết lấy gì đáp lại.Nay biếu vật gì ngươi cũng không nhận,lão xin có quyển sách này tặng người.Dùng quyển sách này ước gì được nấy.
Kỳ nhận sách ước trở lại trần gian.Từ đó, chàng cầu được, ước thấy, có phép biến hóa,trở nên một vị thần phù,theo dòng sông lớn, đổ ngược mãi lên,tìm nơi đất cao phong cảnh đẹp để cắm chổ ở. Đến một nơi có ngọn núi cao chót vót ba tầng,tròn như cái tán,thần hóa phép mở một con đường qua các động và các suối lên đỉnh núi và hóa phép thành lâu đài để ở.Khi đã định cư rồi thần thường xuống núi đi xem các phong cảnh đẹp và dùng phép cứu nhân dân rất nhiều.Ngọn núi thần ở là ngọn núi Tản Viên nên người ta gọi thần là thần Tản Viên hay Sơn Tinh.

43.NỢ NHƯ CHÚA CHỔM

Vào thời nhà Lê,có một ông quan lớn trong triều tên là Mạc Đăng Dung có chí muốn cướp ngôi vua.Nhà vua biết được tin đó nhưng thế lực của Mạc rất lớn: ông ta cầm binh quyền,bè đảng lại đông nên không thể làm gì được.Cuối cùng nhà vua cất lẻn trốn đi nhưng chẳng được bao lâu đã bị Mạc Đăng Dung bắt đem về giam lại.
Hồi ấy, ở trại giam có một cô hàng rượu vẫn thường gánh rượu đến bán cho lính canh ngục.Một hôm,cô hàng đưa rượu vào bán,thấy có một phạm nhân mới mặt mũi khôi ngô bị giam riêng ra một nơi.Khi biết người đó là vua,cô hàng có ý muốn làm quen.Mỗi lần bán rượu cho ngục tốt, nàng đều rót rượu cho vua uống.Dần dà giữa hai người một mối tình nhóm lên.Một hôm cô hàng cất mộtmẻ rượu rất ngon, lại có phá thuốc mê, đem đến cho quân canh.Chờ cho họ nằm gục xuống,nàng bèn vào tình tự với vua.
Từ đó cô hàng rượu có thai.Nhà vua biết mình không thoát khỏi bàn tay tàn bạo của Mạc,bèn giao ấn ngọc lại cho nàng và nói:
-Nàng hãy giữ vật này làm tin,nếu sau này đẻ con trai,sẽ có ngày nó phục thù cho cha.
Không baolâu,nhà vua quả bị họ Mạc sai người vào ngục giết chết.Tất cả hoàng hậu,thái tử,công chúa,phi tần của vua đều chịu chung số phận.Xong việc đó, Mạc chiếm lấy ngôi Lê làm vua nước Đại Việt.
Cô hàng rượu được tin không còn hồn vía nào nữa.Nàng trốn đi nơi khác làm thuê mướn,sống một cuộc đời lẩn lút. Đủ ngày đủ tháng,nàng sinh được mộtngười con trai đặt tên là Chổm.Lớn lên,Chổm được vào chùa ở với sư cụ Thạch Toàn học kinh kệ.Hắn rất sáng dạ nhưng phải cái nghịch ngợm thì không ai bằng.
Một hôm đi chơi về đói,Chổm thấy trước tượng Mụ Thiện có bày một mâm bồng nãi chuối và quýt,anh chàng rón rén đến bệ,bịt mắt Mụ Thiện lại bẻ chuối ra ăn.Bất đồ sư cụ ở đâu đi vào trông thấy liền nọc cổ Chổm ra đánh.Chổm tức lắm,chờ lúc sư cụ đi vằng,lấy giấy viết mấy chữ “Mười tay,mười mắt không giúp được gì cho ta.Thật là vô ích.Phải đày đi phương xa”.Viết xong Chổm dán vào ngực Mụ Thiện. Đêm hôm ấy,sư cụ tự nhiên mộng thấy Mụ Thiện bảo mình rằng:
-Nhà vua đói nên mới ăn,sao lại đánh ngài để ngài đuổi ta đi?Phải mau mau tìm cách xin lỗi ngài để tha cho ta.
Tỉnh dậy,sư cụ rất phân vân,mới gọi chú tiểu Chổm vào kể chuyện cho biết và bảo bóc giấy đi.Sư cụ hỏi anh chàng:
-Cha mày đâu?
Chổm đáp:
-Tôi lớn lên chưa từng nghe nói có cha.
Sau đó chổm trở về hỏi mẹ:
-Cha con đâu?
Mẹ sợ không dám nói sự thật cho con biết, đáp:
-Cha con là họ Lê,bị hổ ăn thịt chết rồi.
Nghe nói vậy Chổm rất buồn.Từ hôm đó anh chàng lập tâm giết hổ để báo thù cho cha.
Một hôm, Chổm vào rừng chơi,thấy một con hổ đang ngủ dưới gốc cây,liền rón rén cầm một hòn đá lớn ném mạnh vào đầu hổ.Hổ vỡ óc chết tươi. Đang nắm đuôi hổ lôi về thì Chổm bỗng gặp một con hổ khác xông ra.Chổm sợ quá, quẳng xác hổ cắm đầu chạy.Nào ngờ khi hổ sắp đuổi kịp thì tự nhiên có mộtông già tay cầm côn sắt ở trong rừng hiện ra đánh chết con hổ dữ.Chổm thoát chết,sụp lạy ông già. Ông già trao cho chàng cái côn,bảo:
-Con hãy học một ít miếng võ để mà hộ thân.
Chổm sung sướng vâng lời.Dạy xong, ông gia cho Chổm cái côn rồi đi mất.
Từ đó,Chổm dùng côn làm vũ khí tùy thân.Một hôm đi qua một cái miếu,nghe đồn có nhiều yêu quái hại người,Chỗm bèn cầm côn trèo tường nhảy vào tìm yêu quái.Một lát, ở trong hang sâu bò ra một con rắn lớn,mắt sáng như sao, miệng phun khí độc,toan vồ lấy Chổm.Chổm giơ thần côn vụt lấy vụt để vào đầu rắn.Rắn chết,từ đó trong xóm được yên ổn.
Hai mẹ con Chổm về sau thấy yên lại trở về chốn cũ.Anh chàng đi kiếm củi hoặc làm thuê làm mướn nuôi mẹ.Những lúc bụng đói,Chổm thường vào ăn cơm hay mua thức ăn ở các quán cơm tại cửa ô.Hàng nào được Chổm vào ăn là hôm đó bán đắt như tôm tươi,còn các hàng khác chỉ ngồi xua ruồi.Người ta cho là Chổm nhẹ vía nên hàng nào cũng muốn mời anh ta vào ăn,dù bán chịu cũng được.Chổm được thể ngày nào cũng đánh chén loang toàng và tiêu pha bạt mạng,toàn là ăn chịu mua chịu.Ai hỏi nợ, hắn đều bảo:
-Đến ngày tôi làm nên,sẽ xin trả chu tất!
Hồi bấy giờ có một vị quan tên là Nguyễn Kim,trốn sang Lào mưu đồ việc diệt Mạc.Vua nước Lào nhường cho ông miếng đất Sầm Châu làm căn cứ để lo việc khởi nghĩa.Qua mấy năm chiêu binh mãi mã,Nguyễn Kim đã gây được lực lượng.Nhưng ông ta còn muốn tìm một người thuộc dòng chính thống để bá cáo với thiên hạ.Khốn nỗi,con cháu vua Lê đã bị Mạc giết hại hầu hết.Một đêm nọ,Nguyễn Kim thấy một vị thần nhân hiện ra trong giấc mộng,bảo ông:
-Thiên tử ra đời đã lâu,sao không đón về,còn chờ gì nữa?
Ông hỏi:
-Ở đâu?
-Cứ đi về phía Tây kinh thành, ở dãy hàng cơm, đúng ngày Thìn giờ Ngọ,hễ rồng đen quấn cột là chính thị thiên tử.
Sau khi tỉnh dậy,Nguyễn Kim rất mừng,bèn mang theo một ít bộ hạ,cải trang đi tìm con cháu nhà Lê theo như lời thần nhân đã mach.
Hôm đó,Chổm đang ngồi ở hàng cơm,thấy có mấy người khách lạ đi qua,bèn đứng ôm lấy cột nhìn ra.Nguyễn Kim rảo qua một lượt,chỉ thấy quấn cột là mộtchàng trai trẻ tuổi,da đen sì,nhưng thấy dáng điệu hèn hạ nên cũng không để ý.
Đêm hôm đó,Nguyễn Kim lại mộng thấy thần trách:
-Ta đã mach cho biết Thiên tử mà không nghe.Ngày mai ra bờ sông,hễ thấy ai đội mũ sắt,cưỡi thuyền rồng là đúng.
Ngày mai,Nguyễn Kim chực ở bờ sông nhìn những thuyền bè qua lại,nhưng chờ mãi chả thấy ai đội mũ sắt cả.Mãi đến gần tối, có một chuyến đò ngang,trong đó có Chổm và một người bán chảo gang.Gặp khi trời đổ cơn mưa,Chổm không có nón,phải mượn chiếc chảo úp lên đầu cho đỡ ướt.Nhưng Nguyễn Kim không chú ý,vì thấy y không có vẻ gì là người quyền quý.Thần lại xuất hiện trong giấc mộng của Nguyễn Kim,trách ông ta không nghe lời mình, rồi bảo:
-Ngày mai cứ đến chỗ quán cơm cũ tìm người nào “đi chữ đại, trở lại chữ vương”thì đón về.
Qua ngày hôm sau,Nguyễn Kim và bộ hạ lại kéo nhau đi tìm.Họ quả thấy anh con trai hôm nọ bấy giờ đang rượu say,nằm trong quán cơm, đầu gối lên ngọn côn,hai tay bỏ xuôi xuống,hai chân dạng ra hai bên như chữ “đại”.Bỏ đi mộtchốc, đến lúc trở lại,họ thấy Chổm cựa mình,lúc này ngọn côn trật lên khỏi đầu,hai tay bỏ ra trước ngực,còn hai chân thì xếp bằng tròn như chữ “vương”.Bấy giờ Nguyễn Kim mới tin chắc anh chàng này là người thần có ý mách cho mình,bèn giả cách vào quán ăn uống,chờ Chổm dậy sẽ đến làm quen.
Chổm chợt tỉnh, thấy một người khăn áo có vẻ quyền quý đến sát giường mình, thì cầm côn chực bỏ chạy.Nhưng Nguyễn Kim đã giữ Chổm lại thưa rằng:
-Xin Điện hạ đừng sợ!
Chổm ngạc nhiên hỏi:
-Ô hay! Điện hạ nào?Tôi là thằng Chổm đây!
Nhưng thấy người quyền quý ấy có vẻ ân cần khi hỏi thăm cha mẹ và chỗ ở.Chổm an tâm hơn,trả lời:
-Tôi họ Lê,cha bị hổ ăn thịt,còn mẹ ở nhà.
Nghe nói là họ Lê,bọn Nguyễn Kim mười phần đã chắc đến bảy tám,liền theo Chổm về đến tận nơi.Trước những người khách lạ,mẹ Chổm nửa mừng nửa sợ.Mãi đến khi biết được thiện ý của bọn họ,bà mới đưa ấn ngọc ra và kể rõ tình đầu.
Thế là từ đó, Chổm cùng mẹ từ giã ngôi nhà nát ở ngoại thành lên đường đến Sầm Châu lo việc phục thù cho cha.Thanh thế quân lê mỗi ngày một to.Vua Mạc nghe tin,sai tướng đem sáu mươi vạn quân vào đánh.Qua bao nhiêu trận kịch chiến,quân Lê đại thắng.Rồi không baolâu,quân của Chổm tiến ra Bắc.Quân Mạc hễ thấy quân Lê đến đâu là chạy trốn như vịt.Bấy giờ Chổm đường đường là một vị chúa uy thế lẫy lừng.
Đến ngày khải hoàn,trở về kinh thành,khi quân gia đang trên đường tiến vào cửa ô thì bỗng có một số người chủ hàng cơm ngày xưa bán chịu cho Chổm,từ đâu kéo ra để chào người quen và để đòi nợ cũ.Thấy thế,bọn lính tiền đạo toan bắt tội vô lễ.Nhưng Chúa Chổm ngăn lại rồi kể chuyện ăn chịu ngày còn hàn vi cho các tướng tá nghe. Đoạn bảo quan hầu lấy tiền ra trả cho họ.Lúc đó có nhiều người thấy kẻ kia đòi được nợ,cũng xúm lại kể ơn nghĩa cũ:kẻ tính thành năm quan,người kể thành mưới,v.v…biến thành một cuộc truy nợ đông như đám hội.Bọn quan hầu đếm tiền mãi không xiết,vì con số chủ nợ mỗi ngày mộttăng.Bọn họ bèn nghĩ ra được một kế là đứng trên kiệu vung tiền xuống cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu.Mọi người thấy thế đổ xổ ra cướp.Dần dần quan quân tiến đến phố,cứ như bây giờ là vườn hoa cửa Nam.Một viên đại tướng nghĩ chúa mình sắp lên ngôi tôn mà khách nợ cứ chạy theo réo mãi như thế này thì còn thể thống gì nữa,mới viết vào một tờ giấy hai chữ “cấm chỉ” dán ở giữa phố và sai một toán quân đóng lại đó,ra lệnh hễ thấy ai còn đòi nợ chúa nữa thì chém ngay.Nhờ thế,người ta mới thôi réo và thôi đuổi theo xe Chổm.
Chúa Chổm vào đến hoàng cung thì trời sắp tối,Thấy văn võ bách quan ai cũng mong muốn mình lên ngôi ngay để yên lòng thiên hạ,Chổm bèn ngửa mặt khấn trời rằng:-“Hỡi Thượng đế,nếu tôi xứng đáng nối nghiệp nhà Lê thì xin quay mặt trời trở lại chính ngọ,bằng không thì tôi sẽ trở về chốn cũ làm ăn,giao quyền vị lại cho người khác”.Khấn được một lúc,quả nhiên trời sắp tối bỗng sáng hẳn,mặt trời lại treo giữa đỉnh đầu.Chổm đường hoàng bước lên đàn làm lễ đăng quang tự xưng hoàng đế.Lễ tất,mặt trời tự nhiên kéo một mạch về phương Tây lặn mất.Trời bỗng tối sầm như mực,lúc mọi nhà vừa thắp đèn lên thì gà vừa gáy canh.[24]
Ngày nay còn có câu tục ngữ Nợ như Chúa Chổm và có câu phong dao:
Vua Ngô ba mươi sáu tán vàng,
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Chúa Chổm mắc nợ tỳ tỳ,
Thác xuống âm phủ kém gì vua Ngô.
Ở chỗ vườn hoa cửa Nam bây giờ, cũng do sự tích trên mà người ta còn gọi là “Ngã tư Cấm chỉ”.

44.HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT

Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba,người còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất cao.Nước cờ của anh chàng không mấy ai trong thiên hạ địch nổi.Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh.Tiếng đồn vang khắp nước,sang đến tận Trung Quốc.Buổi ấy, ở Trung Quốc,có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ.Khi nghe tiếng Trương Ba,Kỵ Như liền xách khăn gói sang Nam tìm đến tận nhà tỉ thí.Hai người đọ tài nhau mấy ván liền không phân thua được.Nhưng đến ván thứ ba,Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí.Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ,Trương Ba kiêu hãnh bảo:
-Nước cờ này dù có Đế Thích xuống tay cũng đừng có hòng gỡ nổi.
Bấy giờ Đế Thích là thần cờ đang ngồi trên thiên đình,bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay.Trương Ba và Kỹ như đang đánh cờ,chợt có một ông cụ già đến ngồi cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ như mấy nước.Phút chốc, bên Kỵ Như chuyển bại thành thắng.Trương Ba cau có,trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí.Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trằng xóa,mặt mũi không có vẻ là người trần,chàng chợt hiểu,liền sụp xuống lạy mà rằng:
-Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi,tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi.
Đế Thích cười bảo:
-Ta nghe nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết.
Trương Ba liền giữ Đế Thích lại,mua rượu,giết gà khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba.Thấy anh chàng khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo:
-Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành.Vậy ta cho một nén hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống.
Nói đoạn, ông cưỡi mây bay về trời.
Từ đó,Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cỗ mời thần Đế Thích xuống chơi.Hai bên rất tương đắc.Nhưng một hôm,Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột.Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa.Thấy có nén nhang giắt ở mái nhà,chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng, Ở thiên đình,thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương liền xuống ngay.Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích nhạc nhiên:
-Trương Ba đâu?
Vợ Trương Ba sụt sùi:
-Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi!
-Chết nỗi!Sao lúc mới tắt nghỉ,không gọi ta xuống liền, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa.
Suy nghĩ một chốc, Đế Thích lại hỏi thêm:
-Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?
Vợ Trương Ba đáp:
-Có một người hàng thịt mới chết tối hôm qua.
Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người hàng thịt rồi bảo nhỏ với chị:
-Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi sống lại.
Nói xong thần hóa phép rồi trở về trời.
Nói chuyện trong nhà người hàng thịt lúc đó,mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhổm dậy.Hắn ta vứt tất cả mọi đồ khâmliệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba.Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt biết là Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại,mừng rỡ đón vào.Giữa lúc đó thì vợ con người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng.Nhưng không những họ bị vợ Trương Ba giằng lại,mà ngay chính chồng họ cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau,cuối cùng biến thành một cuộc đấu khẩu rất kịch liệt.Xóm làng không biết phân xử ra sao, đàng đem việc đó lên quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh hàng thịt.Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận là chồng mình.Quan hỏi rằng:
-Chồng chị ngày thường làm nghề gì?
Đáp:
-Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi.
Quan lại hỏi vợ người hàng thịt:
-Chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn.
Nghe đoạn,quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ,nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả.Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỷ thí với người hàng thịt thì không ngờ con người đó đi những nước cờ rất cao,không ai địch nổi.Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.
Vì thế mới có câu Hồn Trương Ba,da hàng thịt.[25]
Khảo dị:
Trung Quốc cũng có truyện Xác công tử,hồn ông sư:
Một ông sư ở chùa Vạn Phúc,tu hành đắc đạo,tuổi hơn 80 mới chết.Hồn sư đi vơ vẩn, gặp một công tử con nhà quan đi săn cùng mười người hầu,bất thình lình ngã ngựa chết.Hồn sư nhập vào xác mới làm cho xác sống lại.Bọn người hầu tưởng chủ tỉnh lại,chạy tới chăm sóc,nhưng sư ta trừng mắt hỏi:
-Làm sao ta lại ở đây?
Người ta đưa về nhà công tử.Ai đến thăm cũng niệm:
-Nam mô A-di-đà-Phật,làm sao ta đến đây?
Người ta đưa cơm cho thì ăn,còn thịt thì không đụng đến. Đêm ngủ mộtmình,hễ thấy bóng đàn bà đến gần là chạy.Cả nhà đều ngạc nhiên,tưởng công tử hóa điên.
Được ba ngày,sư ta đi bách bộ lẻn ra ngoài hỏi thăm chùa Vạn Phúc,tìm đến,nói mình vốn là Hòa thượng ở chùa này.Các sư tiểu trong chùa cho là nói đùa,nhưng sư ta kể lại mọi việc đều phù hợp.Cuối cùng ở lại chùa tu hành như cũ.[26]

45.CỨU VẬT VẬT TRẢ ƠN,CỨU NHƠN NHƠN TRẢ OÁN

Ngày xưa,có một anh chàng không có tài nghề gì cả,chỉ được cái hiền lành hay thương người.Từ lúc vợ chết,anh ta trở nên túng bẩn tợn,có dạo phải ngửa tay ăn xin.Thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân,anh chàng mới xoay sang đi làm thuê.Nhưng chỉ làm được một ngày,anh đã thấy mệt nhọc và bị chủ la mắng nhục nhã,nên lại dự định làm nghề đi câu là nghề anh cho là thong thả,tự do hơn.Chiều hôm đó, người ta trả công cho ba mươi đồng kẽm.Anh chàng bèn lấy số tiền đó làm vốn,mua lưỡi mua dây,quyết chí làm ăn bằng nghề nghiệp mới.
Sáng hôm sau,anh ra ngồi ở bờ sông câu cá.Nhưng mãi đến trưa chả kiếm được một tý gì.Mồi cứ mất toi.Mãi đến chiều mới thấy phao chìm xuống,anh giật lên thì được một con rắn nước.Lấy làm bực mình,anh chàng gỡ con rắn ra rồi quẳng xuống sông.Lần thứ hai giật lên thì lại chính con rắn nước hồi nãy mắc vào lưỡi.
Anh than thở với rắn:
-Rắn ôi!Tao nghèo lắm,chỉ được ba mươi đồng kẽm thôi.Mày đứng hại tao hết cả mồi,rồi nay biết lấy gì kiếm ăn?
Anh chàng lại quẳng rắn xuống nước.Lần thứ ba cũng lại con rắn đó mắc lưỡi câu.Lần này hắn giận lắm,không thả rắn xuống nước nữa mà nắm lấy cổ rắn định mang đi giết.Qua cửa đền bà thần Khai Khẩu,tự nhiên con rắn nước kêu lên:
-Đừng giết tôi!Tôi là con vua Thủy phủ,vì muốn đánh bạn với anh nên mới tự cắn câu nhiều lần như thế.Hãy cho tôi đi theo,tôi sẽ giúp anh vượt qua cảnh nghèo.
Anh nghe lời,cho rắn theo mình,Từ đó,anh câu được nhiều cá:thứ ăn,thứ bán,cuộc sống rất đễ chịu.Anh chàng với rắn ngày một tương đắc.
Một hôm rắn cho anh biết chỉ ba ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn xưa nay chưa từng có.Anh nghe lời rắn, đóng một chiếc bè nứa để phòng tai nạn.Anh lại còn loan báo cho mọi người xung quanh biết.Nhưng chả một ai thèm nghe.Ba ngày sau,quả nhiên gió bão nổi lên đùng đùng,mưa to như trút,nước dâng lên như biển cả.
Người,vật, đồ đạc và mùa màng.v.v…đều trôi băng băng mất tích.
Mãi đến ngày cơn bão tạnh,anh mới dám chống bè tìm về chốn cũ.
Thấy một cái tổ kiến đang lênh đênh trên dòng nước, con rắn bảo anh chàng:
-Anh hãy cứu chúng nó một chút.
Anh trả lời:
-Vớt làm gì bầy kiến nhỏ mọn ấy để nó bò khắp cả bè.
Nhưng rắn khẩn khoản:
-Không,anh hãy nghe lời tôi đi.Rồi chúng nó sẽ trả ơn anh.
Nghe lời rắn, anh chàng vớt cái tổ kiến lên bè của mình.
Đi được một đoạn,lại gặp một con chuột đang lội bì bõm sắp chết đuối.Rắn lại giục anh vớt lên:
-Ồ!Hắn đáp-Con chuột thì cho nó chết chứ cứu nó làm gì?
-Không,anh hãy nghe tôi đi.Rồi nó sẽ trả ơn anh.
Nghe lời rắn,anh chàng vớt con chuột lên bè của mình.
Đến một chỗ khác họ lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây giữa dòng nước đợi chết.Rắn cũng giục anh giúp trăn thoát nạn.
-Ồ!-hắn đáp-Con trăn kinh lắm,cứu nó mà làm gì?
-Không.Anh hãy nghe tôi đi.Rồi nó sẽ trả ơn anh.
Nghe lời rắn, anh chàng lại giúp cho con trăn lên bè.
Sau cùng họ gặp một người đàn ông đang bám vào một cây gỗ nổi bập bềnh giữa dòng nước.Anh không đợi rắn bảo, định vớt lên bè,nhưng con rắn cản lại:
-Anh đừng vớt nó lên làm gì.Nó sẽ hại anh đấy.
Anh đáp:
-Người ta thường nói, cứu một người dương gian bằng một ngàn âm ty.Sao lại cứu vật mà không cứu người kia chứ?
Nói đoạn,mặc kệ lời rắn can ngăn,anh nhất định thực hiện ý nghĩ của mình,vớt người sắp chết đuối đó lên bè,cho sưởi lửa ấm và cho ăn uống tử tế.
Sau mấy ngày nước rút đi hết,anh thả tất cả những con vật lên bờ,Còn người nọ vì gia đình phiêu bạt,nhà cửa trôi mất cả nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau và coi như em ruột.
Đến lúc con rắn nước trở về Thủy phủ thì nó mời anh cùng đi theo xuống giang sơn của cha mình.Dọc đường,rắn bảo bạn:
-Nếu cha tôi có cho gì thì anh nhớ đừng nhận,mà chỉ xin lấy cây đàn thất huyền. Đàn ấy nếu có giặc,gảy một bài là có thể làm cho giặc phải tan.
Vua Thủy thấy có bạn của con tới chơi,lấy làm mừng rỡ, đãi anh rất hậu.Khi vua Thủy sai quân hầu mang vàng bạc châu báu đến biếu,anh nhớ lời rắn dặn cố khước từ, chỉ xin có mỗi một chiếc đàn thất huyền.Vua Thủy nể chàng,thuận cho ngay.Anh trở về cõi đất, quý chiếc đàn vô hạn.
Một hôm anh có việc phải đi xa.Trước khi đi,anh giấu chiếc đàn thần dưới cót thóc,dặn người bạn chớ có bén mảng đến chỗ cót thóc đó.Nhưng người kia nghe dặn, đồ rằng dưới ấy tất có vật quý,bèn cố tâm tìm kiếm,quả bắt được cây đàn.Hắn đã biết sự mầu nhiệm của cây đàn ấy, bèn lấy trộm rồi trốn đến kinh đô để lập công danh.
Hồi ấy quân đội nhà vua phải đối địch với một nước láng giềng luôn luôn kéo quân sang quấy nhiều bờ cõi.Hắn vào xin vua đi tiễu trừ giặc dữ.Nhờ có chiếc đàn thần,hắn đã làm cho quân đội của đối phương thua liểng xiểng.Lúc thắng trận trở về, hắn được nhà vua hết lời khen ngợi,phong làm Đại tướng,ban lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không còn nghĩ gì đến ân nhân của mình nữa.Nhà vua toan gả công chúa cho Đại tướng nhưng vừa hứa hôn thì bỗng dưng công chúa bị câm.Vì thế hôn lễ đành phải hoãn lại chờ lúc công chúa lành bệnh mới cử hành.
Lại nói chuyện anh chàng câu cá, khi trở về thấy mất bạn,lại mất cả cây đàn thất huyền thì vội bỏ nhà đi tìm.Vào đến kinh đô, một hôm anh gặp người kia,bấy giờ đang ngồi trên kiệu sơn son thiếp vàng, có quân gia theo hầu đông nghịt.Anh đón kiệu lại,cất tiếng hỏi thăm bạn cũ.Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình đã vội thét lính bắt trói lại.Thế rồi, để khỏi lộ chuyện,hắn vu cho anh làm giặc,sai nhốt một chỗ kín đáo,không cho ăn, để chờ ngày đưa ra pháp trường.
Trong ngục tối, giữa khi anh chàng đang than thân trách phận thì bầy kiến ngày xưa đã tìm được cách lọt vào hỏi thăm:
-Tại sao ông bị giam ở đây?
Anh ngơ ngác không hiểu tiếng ai hỏi mình,bèn hỏi lại:
-Ai đó?Tại sao tôi chỉ nghe tiếng mà không thấy người?
-Chúng tôi là bầy kiến mà ông cứu khỏi nạn lụt ngày xưa,hiện đang ở dưới chân ông đây!
Anh chàng cúi xuống tìm kiến rồi kể chuyện cho kiến nghe nông nổi của mình.Kiến nói:
-Chúng tôi không thể làm được gì,nhưng để chúng tôi đi kiếm con chuột ngày ấy,may chuột có kế gì chăng.
Lũ kiến bèn chia nhau mỗi con một phương đi kiếm chuột và báo tin không may của ân nhân mình cho chuột biết.Chuột bảo:
-Bây giờ ông ấy đói lắm, để tôi mang vào ngục một ít thức ăn đã.Rồi tôi sẽ đi kiếm con trăn xem thử nó có mưu mẹo gì chăng?
Chuột liền đưa khoai và bánh lấy trộm được của một nhà hàng vào ngục cho anh chàng ăn.Anh tỏ lời cám ơn.Rồi cả gia đình nhà chuột lại kéo nhau đi tìm trăn.Lúc sắp đến nhà trăn,cả bầy chuột sợ trăn ăn thịt bèn trèo lên cây cao gọi xuống:
-Bác trăn ơi! Bác trăn ơi!
Khi trăn ra,một con chuột già đánh bạo xuống kể chuyện cho trăn biết.Trăn nhả ra một viên ngọc bảo chuột đưa về cho ân nhân mà rằng:
-Viên ngọc này mài ra thành bột có thể chữa lành câm. Ân nhân của chúng ta có thể đem chữa bệnh cho công chúa rồi nhờ đó mà thoát nạn.
Khi được ngọc,anh chàng gọi người cai ngục đến nói mình có phép cứu công chúa khỏi câm.Người ta dẫn anh đến trước vua,Quả nhiên,sau khi công chúa uống nước ngọc mài bỗng nói được và câu đầu tiên của nàng là đòi lấy người cứu mình làm chồng.Vua rất khen ngợi,hỏi anh ta vì sao có thứ thuốc thần diệu đến thế.Anh chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện, từ lúc câu được rắn, cứu đước các con vật và người,cho đến lúc bị người phản bội,còn các con vật lại tìm cách trả ơn,trong đó có con trăn cho mình viên ngọc quý.Vua nghe xong tắc lưỡi:
-Thật là bụng dạ con người sâu hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm!
Lập tức vua sai lính bắt giam tên Đại tướng bất nghĩa kia để chờ ngày phán xử.Còn anh chàng đi câu được vua cho làm quan và gả công chúa.Anh ta sốngmột cuộc đời sung sướng hơn trước.[27]
Ngày nay câu chuyện Cứu vật vật trả ơn,cứu nhơn nhơn trả oán dùng để mỉa mai những người lấy oán trả ơn, thua kém cả loài vật.
Khảo dị:
Trong Lục độ tập kinh có 2 truyện:
1-Ở vương quốc Ma Thiên La có ông vua đi tu trong rừng trên 30 năm thành sư.Một hôm có người đi săn rơi vào hố sâu;một con quạ và một con rắn sợ hãi cũng rơi luôn xuống.Thấy chúng kêu cứu,sư cầm đuốc soi rồi thong dây cho lên.Lên được rồi,cả người và vật lạy tạ,hứa sẽ đền ơn.Người đi săn mồi đến nhà để hắn dâng cúng.Quạ nói:
-Tôi tên là Bạt,nếu gặp việc gì khó, gọi tôi sẽ đến.
Rắn cũng nói:
-Tôi tên là Trường,gặp nguy thì cứ gọi tôi.
Sau đó sư đến nhà người đi săn.Trông thấy ân nhân từ xa, người đi săn bảo vợ:
-Mình hãy làm một bữa cơm ngon để đãi sư,nhưng cứ làm dềnh dàng cho quá bữa, ông ta sẽ không ăn.
Quả nhiên vì quá bữa nên sư cáo về.Dọc đường gặp quạ,sư gọi tên,Quạ đáp xuống hỏi sư đi đâu.Sư đáp:
-Đến nhà người thợ săn.
-Đã ăn gì chưa?
-Họ có dọn nhưng quá bữa,ta không chờ được.
-Nó có thực bụng đâu.Tôi không có gì, nhưng ông hãy chờ đây.
Nói rồi, quạ bay đến vương quốc Ban Thử, vào hậu cung thấy vợ vua đang ngủ say,bèn cắp lấy hòn ngọc để trên đầu,tha về cho sư.
Vợ vua tỉnh dậy thấy mất ngọc, báo cho chồng biết.Vua bố cáo cho thiên hạ,ai tìm được sẽ thưởng 1000 vàng,1000bạc,1000 bò,1000 trâu,nhưng nếu ai giấu sẽ giết cả bà con.Sư cho người đi săn hòn ngọc ấy.Hắn bèn trói sư lại báo cho vua biết.Vua hỏi sư vì sao có ngọc?Sư nghĩ rằng nếu nói thật thì quạ sẽ tuyệt nòi,nếu nói mình lấy thì không xứng đáng là con Phật,bèn nín lặng, chịu hàng ngàn roi đòn tra tấn.Sau cùng vua sai chôn sư chỉ chừa có cái đầu, ít hôm nữa sẽ chém,Sư cầu cứu rắn.rắn đến bảo:
-Tôi sẽ cắn hoàng tử, đứa con độc nhất của vua,rồi tôi mang thuốc đến đây, ân nhân xin chữa,chữa sẽ lành, được tha.
Hoàng tử bị rắn cắn chết.Vua cho rao,ai chữa sống lại sẽ được ban nửa nước.Lúc người ta mang xác hoàng tử đi qua chỗ nhà sư đang chịu cực hình,sư xin cho mình chữa.Chữa lành,vua y ước chia cho sư nửa nước.Thấy sư từ chối,vua nghĩ:-“Một nửa nước mà chối thì sao có thể là kẻ trộm ngọc được?”.Vua bèn tới hỏi:
-Ông là ai mà lại đi tu?
Sư kể lại sự thật.Vua khóc.Cho gọi người đi săn,bảo đem bà con đến để lĩnh thưởng.Khi họ đến,vua phán:
-Lòng độc ác và vô ơn là tội nặng nhất.
Rồi vua sai chém tất cả.
2-Bồ -tát là người giàu có lớn,một hôm đi chợ thấy có người bán một con rùa,bèn lại hỏi giá.Biết Bồ-tát giàu có,người ấy đòi mua một triệu đồng nếu không thì đem rùa về làm thịt.Bồ-tát bằng lòng mua,băng bó cho rùa,rồi thả xuống sông. Ít lâu sau,rùa báo tin cho Bồ-tát phải sửa soạn tàu bè,sẽ có trận lụt lớn.Bồ-tát báo tin cho vua hay để đưa đồ đạc,kho tàng lên cao. Đến ngày lụt,rùa đến Bồ-tát.Thuyền chèo đi,cứu được một con rắn,rồi một con chồn.Sắp cứu mộtngười thì rùa cản lại.Bồ-tát hỏi:
-Sao lại cứu vật mà không cứu người?
-Rồi sẽ hối cho mà xem.
Nước cạn,rùa về.Rắn, chồn cũng mỗi con một ngả.Chồn tìm được 100 cần vàng trong lỗ chôn, đưa tặng Bồ-tát.Người được cứu đòi phải chia cho hắn mộtnửa,Bồ-tát nói là để cho người nghèo,chỉ chia cho hắn 10 cân.Hắn tố cáo lên quan.Bồ-tát bị bắt. Ở đây rắn cũng cho một vị thuốc chữa rắn cắn,rồi đi cắn chết hoàng tử và cuối cùng Bồ-tát cũng được vua tha vì chữa lành bệnh cho hoàng tử.Truyện kết thúc bằng sự trừng phạt tên vô ơn,còn Bồ-tát thì trở thành cố vấn của nhà vua.
3-Một truyện thứ ba cũng từ kinh Phật mà ra:
Bốn con vật:một sư tử, một rắn,một chuột,một chim cú,rơi vào một hố sâu cùng với một người đốn củi.Tất cả đều được một người đi săn cứu lên. Để trả ơn,sư tử tặng một con nai;chim cú tặng một chuỗi hạt lấy của vợ vua Đều Đạt.Do người được tố giác nên anh thợ săn được chuột đến bày cho cách chữa.Anh vào cung xin chữa và cuối cùng được tha.[28]
Nhiều sách Phật khác,ví dụ Ra-sa-va-ni-ni (Rachavanini) (tiếng Pa-li) và kinh Các-ma-xa-ta-ca (Karmacataka)(tiếng Tây Tạng) cũng chép truyện này,bảo là từ miệng Phật nói ra để nhắc đến một hành động vô ơn bạc nghĩa.[29]

46.SỰ TÍCH VỀ THIỀN SƯ KHÔNG LỘ

Sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Nam Định viết: “ Chùa Thần Quang, xưa là Nghiêm Quang, ở tại xã Dũng Nhuệ,huyện Giao Thủy,thể chế rộng rãi,là chỗ Trụ trì của Dương Không Lộ,nay hiển linh,phàm có thiên tai thủy hạn đến cầu liền nghiệm”.Chùa Thần Quang ngày nay như vậy là chùa Nghiêm Quang thời Lý.Làng Dũng Nhuệ nay gọi là làng Dũng Nghĩa thuộc huyện Giao Thủy,tỉnh Thái Bình.Chùa Thần Quang thường cũng gọi tắt là chùa Keo,hiện vẫn còn.
Xác định vị trì chùa Nghiêm Quang như vậy thì vị trí Hải Thanh đương nhiên phải rơi vào địa phận huyện Giao Thủy, tỉnh Thái Bình ngày nay.
Bản in đời Nguyễn của An Thiền dưới cái tên Trùng khắc Đại nam Thiền uyển Truyền đăng Tập lục,quyển thượng,chép một truyện sử hoàn toàn khác với truyện sử đây về Không Lộ: “Trong khoảng Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tôn,có Thiền sư Không Lộ,người Lại Trì,huyện Chân Định,tỉnh Nam Định,họ Nguyễn,thường cùng với Giác Hải và Từ Đạo Hạnh kết làm đồng chí.Nam ông 29 tuổi,ba người đi qua nước Thiên Trúc,theo học với một vị Sa-môn. Được lục trí thần thông rồi,bèn quay trở về quê mình,dựng chùa Diên Phúc,chuyên trì chú Đại bi.Bấy giờ Không Lộ muốn tạo cho nước Đại Nam bốn món đồ,chỉ hiềm vì nhà nghèo sức mọn.Một hôm ông nghĩ tới nước Tống đất rộng tất có nhiều đồng tốt có thể dùng cho việc đúc tạo,bèn liền rút ngắn đường, đi lên phương Bắc,khách trú ở nhà một trưởng giả,rồi xin đất sáu tấc để dựng chùa.Vị trưởng giả cười nói rằng: “Xưa Lương Thái Tử dựng chùa, đất rộng ngàn dặm,vàng ròng khắp đất.Sao bây giờ lại lấy sáu tấc đất như thể chỗ chuồng gà mà làm?”. Đêm đó, bèn tung áo cà sa phủ khắp mười dặm đất.Vị trưởng giả thấy ông có phép thần, bèn đem hết vợ con đến lạy tạ.Từ đó, cả nhà đều quy y Tam Bảo.
Ngày hôm sau, ông mặc pháp phục,cầm gậy vào triều,thẳng đứng giữa sân rồng.Vua bấy giờ đang buổi thị triều thính chính văn võ hai ban,thấy vị Sư già,bèn triệu vào hỏi: “Lão ông là dân người phương nào, tên họ là chi, đến đây có việc gì?”.Vị Sư già thưa: “Tôi là bần tăng của một nước nhỏ, xuất gia đã lâu năm, nay muốn tạo bốn món đồ cho Đại Nam, nhưng vì sức không theo lòng, cho nên tôi không ngại vượt núi băng rừng ngàn dặm đến đây.Ngưỡng mong Thánh đế mở rộng tấm lòng bố thí cho một ít đồng tốt, để tiện việc tạo đúc”. Vua hỏi: “Đồ đệ bao nhiêu?”.Sư đáp: “Chỉ một mình bần tăng thôi,xin đầy mộtbao đồng, tự mình gánh về là đủ”.Vua nói: “Phương Nam đường sá xa xuôi,cho phép Sư tùy sức mà lấy,chẳng cần đếm ghi”.Vị Sư nghèo đã lấy hết kho đồng rồi mà vẫn chưa đầy một bao,bèn le lưỡi,lắc đầu,vào tâu việc đó.Vua ngạc nhiên hối tiếc,nhưng nghiệt vì đã hứa cho,nên không thể làm sao được.Vua đem trăm quân tiễn đưa về nước.Vị Sư nghèo từ chối,nói rằng: “Một bao đồng,tự mình đủ sức mang đi,chẳng nhọc đưa gánh”.
Vị Sư nghèo đi ra ngoài rồi,bèn lấy gậy quảy bao mà đi một cách nhẹ nhàng.Qua sông,bèn lấy nón mà chở,rồi trở về.Trong phút chốc đã tới bến Hoàng Giang,bèn tới chùa Quỳnh Lâm,huyện Đông Triều,tỉnh Hải Dương đúc tượng Đại Phật Di Đà,tháp Báo Thiên ở kinh đô một ngọn,chuông lớn chùa Phổ Lại một quả,vạc lớn chủa Phổ Minh một cái.Số đồng còn lại đem đúc hồng chung cho chùa ở xã mình,nặng ba ngàn ba trăm cân.Lại đúc cho chùa Diên Phúc,huyện Giao Thủy một quả hồng chung nặng ba ngàn cân.Công quả hoàn thành,bèn làm bài kệ rằng:
Cởi nón vượt biển lớn
Một giây muôn dặm đường
Tổng đồng một bao hết
Tay múa sức ngàn cân.
Bấy giờ Hoàng đế Nhân Tôn xây điện Hưng Long, năm sau mới xong,cực kỳ tráng lệ.Bỗng nghe trên tường hai con ễnh ương kêu lớn,tiếng như sấm to.Vua ủ rũ không vui.Lúc ấy,vị chỉ huy sứ tâu: “Chỉ có Không Lộ và Giác Hải mới trừ được loài quái vật đó”.Chỉ huy sứ tức thì nhận lệnh vào hôm rằm tháng giêng đến trước am Sư.Sư hỏi: “Chỉ huy đến sao trễ thế?”.Vị chỉ huy trả lời: “Thầy sao biết trước chức tước của tôi?”.Sư đáp: “Ta cỡi trăng đạp mây nhân vào thành vua,nên sớm biết việc đó”.Ngày đó Sư đến kinh đô.Vua đem một cây đinh lớn đóng vào cột điện ,nói rằng: “Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì làm Pháp chủ”.Không Lộ lấy tay bật cái đinh ra một cách nhẹ nhàng và mật tụng thần chú thì hai con ễnh ương nghẹn cổ không còn kêu và giây lát rớt xuống đất.Vua thưởng vàng ròng một ngàn cân,ruộng đèn nhang năm trăm mẫu và phong làm Quốc sư.
Bấy giờ vua Thần Tôn tuổi mới 21,bỗng nhiên biến làm một con cọp dữ,xông xáo cắn người,nanh vuốt dễ sợ.Vua phải dựng một chuồng vàng mà nhốt đi.Thì nghe con nít huyện Chân Định hát rằng:
Nước có Lý Thần Tông
Triều đình muốn chuyện thông
Muốn yên bệnh thiên hạ
Phải được Nguyễn Minh Không.
Vua xuống chiếu cho vị chỉ huy rằng: “Đem thuyền đi đón Sư”.Vị Chỉ huy đến am, Sư cười nói: “Phải chăng chẳng là chuyện cứu cọp dữ đó sao?”.Vị Chỉ huy hỏi: “Thầy làm sao biết sớm vậy?”.Sư đáp: “Ba mươi năm trước đây ta đã biết chuyện này rồi”.
Sư đến, lên trên điện vua ngồi,lớn tiếng nói: “Trăm quan vui lòng đem đỉnh dầu lớn đến đây”.Trong đấy, Sư để thêm một trăm cái kim,rồi nổi lửa đốt cháy hừng hực.Bên cạnh để cái chuồng giữ vua.Sư lấy tay mò vào trong đỉnh,lấy ra mộttrăm cái kim,phóng vào mình vua,quyết rằng: “Làm Thiên tử là quý”.Vua tự nhiên lông đuôi vuốt nanh rớt rụng hết và trở lại làm thân vua.Vua trả ơn bằng vàng vòng một ngàn cân,ruộng đèn nhang một ngàn mẫu,vĩnh viễn làm ruộngchùa không ghi vào sổ thuế.
Sư ra đời ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn, đến ngày 13 thàng 6 năm Giáp Tuất thì mất.Hiện nay,trước huyện lỵ,Thọ Xương,Hà Nội có đền thờ Lý Quốc Sư thờ thần tượng Sư hiện có bia ký: “Thị dân đạo Tiên muôn đời đèn nhang phụngsự”.
(Thiền Uyển Tập Anh-Lê Mạnh Thát dịch-NXB.TPHCM 1999)

47.CÁI KIẾN MÀY KIỆN CỦ KHOAI

Ngày xưa,có một anh chàng sinh trưởng trong một gia đình giàu có.Nhà hắn có ao thả cá,có trâu bò,ruộng vườn khá nhiều.Ngày ấy ở gần làng hắn có một cô gái nết na,nhan sắc xinh đẹp,chỉ phải cái tội nghèo.Hàng ngày cô gái phải làm thuê làm mướn kiếm ăn.Anh chàng nhà giàu kia từng ngây ngất vì nhan sắc của cô.Mặc dầu không môn đăng hộ đối,nhưng hắn ao ước được cùng nàng kết làm bạn trăm năm.Sau đó,nhờ có một người đàn bà làm mối,hắn được gặp nàng nhiều lần và chỉ non thề bể quyết lấy nàng làm vợ.Nghe hắn nói thế,cô gái vô cùng sung sướng và hiến thân cho hắn không tiếc gì nữa.
Nhưng người đàn bà mối lái vốn là người chỉ biết có đồng tiền.Được tiền của anh chàng giàu cho mụ vẫn chưa thỏa mãn.Đối với cô gái nhà nghèo, mụ không “xơ múi”gì.Bây giờ ở gần vùng đó có một cô gái nhà giàu ế chồng.Mụ bèn tìm tới tỉ tê với cô nọ,bảo nếu cho mình nhiều tiền,mình sẽ đánh tiếng cho anh chàng nhà giàu kia.Cô gái nọ nghe nói mừng lắm, đút tiền cho mối để mụ ta liệu bề tác thành cho mình.
Từ đó,mụ mối luôn luôn buông lời gièm pha cô gái nhà nghèo:
-“Con này-mụ nói-thế mà không được đoan chính.Đã nhiều lần tôi bắt gặp nó tằng tịu với Đồ Vân.Đồ Vân học giỏi nay mai sẽ đỗ đạt…”
Thế rồi mụ ta nhen nhóm thêm lòng ghen tuông và tức giận của anh chàng, đồng thời nói tốt cho cô gái mà mụ bòn lần hồi khi năm quan,khi ba quan,không biết mỏi.Và mưu kế của mụ có hiệu quả;anh chàng kia từ ghen tức đến chán ghét người tình cũ.Cuối cùng anh chàng cho người đưa trầu cai dạm hỏi cô gái nhà giàu kia làm vợ.
Ngày cưới của hai bên,cô gái nghèo nọ bị tình phụ,lòng đau như cắt.Trong mộtphút tủi phận hờn duyên,nàng nhảy xuống sông tự tử.Cái chết của nàng đã làm cho cặp vợ chồng mới trở nên hối hận và lo sợ.Nhất là mụ mối thì như sét đánh ngang tai.
Khi tất cả mấy người đó lần lượt chết xuống âm phủ,Diêm Vương đã đọc hồ sơ,hiểu rõ nỗi oan cũng như tội trạng của từng người và bắt họ phải trở lại dương thế để đền “nợ” hay báo “oán” của chính mình một cách xứng đáng.Mụ mối được thác sinh vào nhà một phú ông,anh chàng phụ tình lại thác sinh làmmột người học trò nhưng không đất cắm dùi.Còn người bạc mệnh thì được ở lại cõi âm để theo dõi chúng mà báo thù.
Cái Kiến, cô con gái phú ông rất đẹp và thông minh.Nhưng cha của nàng thì tính khí thiển cận. Ông ta chỉ biết có tiền và danh vọng,còn ngoài ra ông chả coi ai ra gì.Chàng thư sinh rất khôi ngô,học giỏi ,văn hay,nhưng nghèo rớt mồng tơi.Chàng đã từng vác lều chiếu đi thi.Văn tài của chàng nổi tiếng khắp kinh kỳ,thế mà cứ hễ vào trường nhất hay giỏi lắm vào đến trường nhì là bị loại ngay.Không làm cho đau bụng thì cũng bắt phạm “trường quy”,oan hồn của người bạc mệnh quyết không cho hắn đỗ.Mỗi lần không đỗ là một lần sự buồn bực kèm thêm với sự khốn khó dằn vặt anh chàng.Thế nhưng chàng vẫn lọt vào mắt xanh của cô Kiến.Cô gái phú ông vẫn tin tưởng rằng người học trò đó sẽ làm nên.Nàng ao ước sẽ được sánh duyên với chàng mới phỉ dạ.Hai nguời đã gặp nhau và thề bồi với nhau,quyết giữ một lòng son sắt.Khi nghĩ đến cha mình,cô gái phú ông rất buồn vì biết ông khó tính.-“Không đời nào ông ấy lại gả con cho một người nghèo xơ nghèo xác”. Nghĩ thế,nàng lập mưu ăn trộm tiền bạc của cha,mua vàng đúc thành một khối hình củ khoai.Không gặp nhau được,nàng nhắn người yêu giả làm người ăn xin đến nhà mình xin khoai,nàng sẽ tận tay trao cho món ấy để dùng làm sính lễ.
Anh chàng y hẹn, đã cải trang, mang bị gậy đến nhà phú ông xin ăn.Cô con gái mang khoai ra cho,trong đó có giấu củ khoai bằng vàng.
Rồi đó, người mối của anh chàng xin chạm ngõ cái Kiến.Phú ông nghe nói sính lễ là một củ khoai bằng vàng mười thì ngạc nhiên.Nhưng rồi ông cũng nhận lời.
Đến ngày cưới ,khi họ nhà trai bưng sính lễ đến họ nhà gái đổ xô ra xem để biết chàng rễ của phú ông giàu có ngầm như thế nào.Củ khoai vàng được gói ba bốn tầng vải hồng điều.Không ngờ khi mở ra xem thì chả thấy vàng đâu cả mà chỉ là một củ khoai lang luộc thực sự.Oan hồn cô gái cố ý làm ra như vậy cho bỏ ghét.Cả hai họ bật cười.Phú ông tức giận chửi mắng om sòm.Rồi để chế nhạo, ông cắt khoai biếu mỗi người một miếng.
Chàng học trò không ngờ có sự lạ lùng ấy, vừa buồn vừa xấu hổ đi luôn mộtmạch không trở về nhà nữa.Còn cái Kiến tưởng người yêu là một tay đại bợm: đã lấy mất vàng lại bày ra trò diễu cợt đó nên tức tối thành bệnh mà chết.
Lúc xuống âm phủ lần này,nàng kiện với Diêm Vương về việc củ khoai vàng,nhưng Diêm Vương đã giở sổ vạch cho hắn biết những tội lỗi kiếp trước.Vì thế mới có câu:
Cái Kiến mày kiện củ khoai
Và sau này những anh con trai nhà nghèo thường thêm vào:
Mày chê tao đói lấy ai cho giàu
Nhà tao chím đụn mười trâu
Lại thêm ao cá bắc cầu rửa chân.
để mỉa mai những cô gái bắc bậc kiêu kỳ.[30]

48.CỦA TRỜI TRỜI LẠI LẤY ĐI,
GIƯƠNG ĐÔI MẮT ẾCH LÀM CHI ĐƯỢC TRỜI

Ngày xưa, có một người nghèo khổ quá.Ngày ngày ông ra bãi biển cố sức mò cua bắt ốc để đổi lấy miếng ăn,nhưng không bao giờ đủ.Thấy người ta sung sướng giàu có, ông ao ước được như họ.Luôn luôn ông cầu Trời khấn Phật xin cho đỡ khổ một ít,dù có bị giảm tuổi thọ đi bao nhiêu cũng được.Ông cầu khẩn như thế trong ba năm liền.Tuy không thấy thân phận khá lớn chút nào nhưng ông vẫn kêu xin không mỏi.
Một hôm,trong khi đào cua ở một hang, ông bỗng bắt được một thỏi gì vuông vuông nằng nặng và sáng chói.Vừa lạ vừa mừng, ông mang về hỏi hàng xóm.Người hàng xóm cho biết đó là vàng.Mừng quá, ông lại cố công đào tìm thêm nữa.Kết quả được cả thảy mười thoi vàng. Ông hết lời cảm tạ Trời Phật. Ông định giấu kỹ rồi đưa về quê tậu ruộng làm nhà và lấy một người vợ.Không ngờ người hàng xóm không giữ kín miệng,nên tin đồn được vàng lan đi rất nhanh.Một tên trọc phú ở gần đó vừa nghe thế,vội tìm đến làm quen.Hắn dùng những lời đường mật gạ đổi ruộng đất của hắn để lấy vàng.Thấy ông chưa có vợ,hắn gả em gái cho.Nghe bùi tai, ông vui lòng kết thân với hắn.Từ đó, ông làm ăn ngày một khấm khá:có vợ đẹp,có ruộng cày,có nhà cửa,cuộc sống rất dễ chịu.Nhưng do mưu mô xảo quyệt của tên trọc phú,cuối cùng mười thoi vàng về tay hắn cả.
Tuy vậy,tên trọc phú nuốt vàng không trôi.Tin đồn “một người bắt cua được vàng”bay nhanh đến tai mọi người và đến tai một viên quan huyện.Nghe nói vàng về cả tay tên trọc phú,viên quan huyện không tìm được lòng ham muốn.Hắn gọi lão trọc phú đến tư chất và gạ chia cho mình một nửa.Nhưng lão trọc phú đời nào lại chịu mất không như thế.Viên quan huyện càng giận để bụng.Nhân bắt được một đám cướp lớn,hắn bèn bảo chúng khai vu cho tên trọc phú bị kìm kẹp, đánh đập rất khổ cực, đành phải nhả của ra để mua lấy sự yên thân.Cuối cùng không những 10 thoi vàng nọ lọt vào tay viên quan huyện mà nhiều tiền gạo khác của hắn cũng đội nón ra đi để đấm mõm bọn hương lý,bọn sai nha,v.v…
Lại nói chuyện viên quan huyện,chỉ dùng một mẹo nhỏ mà chiếm được số vàng lớn thì mừng quá.Hắn sai con cùng với một người lão bộc bí mật đem số vàng đó về quê để tậu thêm ruộng đất.Nhưng đứa con của hắn là một tay có máu mê cờ bạc.Trong khi đi thuyền,thấy có canh bạc to,hắn định đem số ít vàng của bố để mong “dậy hóa”.Mặc dầu người lão bộc can gián hết lời,hắn vẫn không nghe.Quả nhiên chỉ trong một đêm,hắn thua hết cả chẳng còn một đồng dính túi.Thế là bao nhiêu vàng của viên quan huyện tự nhiên lọt vào tay một lão lái buôn.Nhờ ngón cờ gian bạc lận,lão lái buôn và một tên đồng đảng đã vét sạch bàn,và qua ngày hôm sau hai người hý hửng mang số tiền chiếm được mộtcách khỏe khoắn,trong đó có 10 thoi vàng của con quan huyện về nhà,mặc kệ kẻ mất của kêu trời khóc đất.
Không ngờ hôm ấy có bốn tên ăn cướp đang lảng vảng ở khu rừng gần đây.Thấy có hai người bộ hành mang tay nải nặng đi qua,chúng bèn đuổi theo không rời một bước.Khi hai con mồi đến chỗ vắng,chúng nhảy xổ ra giết chết và cướp lấy tay nải.Nhìn thấy những thoi vàng sáng chóe,chúng mừng rú lên,vội chia nhau,cứ hai đứa năm thoi, còn số tiền lẻ bạc vụn thì giao cho hai đứa trong số bốn đứa, đi mua rượt thịt về chén một bữa.
Lại nói chuyện hai tên cướp được cử đi chợ ,tự nhiên sinh lòng tham muốn chiếm lấy tất cả số vàng để chia nhau mỗi đứa năm thoi,chả cần phải cắt phải chặt,cân đi lường lại mất công.Chúng bỗng nảy ra một lế là mua thuốc độc bỏ vào rượu cho hai tên kia uống.Thế là hai đứa vào chợ ăn uống no say, đoạn mua bún lòng và rượu có pha thuốc độc mang về.
Trong khi đó thì hai đứa ở nhà cũng bàn mưu tính kế để độc chiếm số vàng.Cuối cùng chúng quyết định chờ cho hai tên kia về đến nơi,bất thình lình mỗi đứa cầm dao hạ thủ một tên.Và rồi chúng làm y như lời chúng đã bàn.Vừa đi chợ về đến nơi,hai đứa kia đã bị mỗi đứa một nhát dao vào lưng ngã vật ra.Xong việc,hai tên còn lại mới giở rượu thịt ra chén.Nhưng chỉ một lát,sau khi rượu ngấm,chúng cũng vật vã và nằm chết luôn bên cạnh.
Mười thoi vàng bỗng trở nên vô chủ.Nhưng chỉ nội ngày hôm đó, một người khách thương tình cờ đi qua chỗ nọ đã nhanh tay chiếm lấy làm của mình. Được món của lớn bên cạnh những xác chết, hắn vội vã đi tìm về thuyền,và mặc dầu chưa cất được hết hàng, hắn đã sai nhổ neo vượt vời để tránh mọi lôi thôi xảy đến.
Thuyền đi ra biển đến ngày thứ hai thì tự nhiên có một cơn bão nổi lên rất dữ dội.Cột buồm bị gãy và thân thuyền bị sóng đánh vỡ làm nhiều mảnh.Tất cả mọi thứ đều chìm xuống đáy biển hoặc lọt vào bụng cá.
Duy chỉ có một số người ôm được ván và nhờ sóng đánh dạt vào đất liền.Trong đó có cả người khách thương.Khi được người dân địa phương cứu cho hồi tỉnh, hắn chép miệng than thở:
Của trời,trời lại lấy đi,
Giương đôi mắt ếch làm chi được trời.
Khảo dị:
Truyện này có nhiều kể khác nhau,hình như nguồn gốc của nó là một Phật thoại. Ở một Phật thoại Việt Nam, Sự tích mười tám ông Phật La hán có những tình tiết tương tự:
Một người đàn bà đẻ được mười tám người con trai, lớn lên chúng rủ nhau đi ăn cướp.Hồi đó,có một phú trưởng giả hay bố thí,nhất là đối với học trò nghèo.Một hôm có một anh học trò tên là Bất Đồ đến xin tiền,phú trưởng giả cho luôn một lúc năm mươi quan và còn cho mượn ngựa trở về,hẹn lúc đến nhà cứ thả ngựa ra là ngựa sẽ tìm về chuồng cũ.Bất Đồ đi được nửa đường,ngựa sinh chứng không chịu đi nữa,quăng người và tiền xuống đất rồi trở về.
Anh học trò chưa biết tính thế nào, bỗng có bốn tên ăn cướp đến đánh chết, đoạt lấy của.Như truyện trên, chúng chia nhau một người 10 quan,còn 10 quan cắt hai đứa đi mua rượu thịt.Kết cục cũng giống như trên,nghĩa là hai đứa bị đồng lõa giết chết,còn hai đứa kia uống thuốc độc vào cũng chết luôn.
Thấy ngựa trở về quá sớm,phú trưởng giả sinh nghi,mới sai người đi tìm.Khi biết được sự thật,phú trưởng giả suy tính: -“Năm mươi quan làm chết năm mạng,vậy trong nhà có ba trăm ngàn quan thì sẽ làm chết bao nhiêu ngàn người mà kể”.Mới sai người mang tiền lên thuyền chở đi đổ sông.Vừa gặp mười tám tên ăn cướp khác đến toan cướp giật.Họ kể đầu đuôi cho nghe,Mười tám người kia ăn năn,bèn nhảy xuống sông chết một lượt.Phật đưa lên Nát-bàn thành mười tám vị La-hán.[31]

49.TRẠNG HIỀN

Vào thời nhà Trần, ở một làng nọ, bấy giờ thuộc về Nam Định,có một em bé tên là Hiền.Hiền được cha mẹ cạo đầu làm tiểu,cho ở với một ông sư trênchùa.Hằng ngày,Hiền phải hầu hạ sư,quét dọn chùa và làm các công việc vặt rồi mới được sư dạy cho học.Thế nhưng Hiền học một biết mười,chả mấy chốc mà nổi tiếng thần đồng.
Một hôm, Hiền quét chùa, nhân đề nghịch vào lưng một pho tượng mấy chữ “đày ba ngàn dặm”.Đêm ấy Hòa thượng trụ trì nằm mộng thấy một vị Tôn giả đến từ giã mình,bảo rằng có việc phải đi xa.Tỉnh dậy,Hòa thượng trong bụng lấy làm phân vân,khi nhìn thấy lưng tượng Phật có mấy chữ Hán, đoán biết là chữ của Hiến,vội quát,bắt phải lấy nước rửa ngay. Đêm hôm ấy,Hòa thượng lại mộng thấy vị Tôn giả lại đến cảm ơn mình,Từ đấy cả chùa đều đoàn biết Hiền sẽ làm nên sự nghiệp hơn người.
Năm 12 tuổi,Hiền đi thi và đậu luôn Trạng nguyên.Khi Hiền vào bái mạng trước sân rồng,Vua thấy Trạng bé loắt choắt trong bộ áo mũ quá khổ bèn phán hỏi:
-Trạng học với ai?
Hiền đáp ngay:
-Tâu bệ hạ,tôi lúc nhỏ ở chùa,không học với ai cả,chỉ khi nào không hiểu mới hỏi nhà sư một vài chữ mà thôi.
Vua thầy Trạng đối đáp cộc lốc,cho là trẻ con chưa biết lễ phép,bèn cho Trạng về nhà học lễ phép trong ba năm,sẽ lại cho làm quan.
Hồi ấy có sứ nhà Nguyên đưa sang ta một câu đố để thử xem nước Nam có nhân tài chăng.Triều đình nhà Trần mở Quốc thư ra chỉ thấy có bốn câu thơ chữ Hán:
Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tứ sơn điên đảo sơn,
Lưỡng vương tranh nhật quốc,
Tứ khẩu tranh tung hoành gian.[32]
Cả vua lẫn quan đều ngẩn ra,không biết làm sao mà đoán được.Mấy ông cụ già trong Viện hàn lâm,trong Quốc tử giám,vắt óc cố suy nghĩ nhưng lâu lắm vẫn không tìm ra câu trả lời.Mãi về sau,có người nhớ tới Trạng Hiền,Vua vội sai mộtviên quan văn đi mời ngay Trạng về triều để may ra có thể giải quyết việc bối rối cho cả nước.
Viên quan không quản ngại ngày đêm,phi ngựa nước đại tìm về làng Trạng.Thấy một lũ trẻ đang đùa nghịch ở gốc đa đầu làng,viên quan thử ra mộtcâu đối để dò xem Trạng có mặt trong đám ấy chăng:
-Tự là chữ,cất giằng đầu;chữ Tử là con:con ai con ấy?
Hiền tay vẫn chơi đùa,miệng đáp lại ngay:
-Vu là chưng,chặt là ngang lưng;chữ Đinh là đứa: đứa nào đứa nấy.
Đáp đoạn,bỏ chạy về nhà.Khi viên quan tìm được vào nhà thì thấy Hiền đang đun bếp.Hắn lại ra một câu đối:
-Ngô văn quân tử viên bào trù,hà tu mị áo (Tôi nghe người quân tử xa chỗ bếp núc,sao lại nịnh ông Bếp?)
-Ngã bản hữu quan cư đỉnh nại,khả tạm điều canh (Ta vốn ở ngôi khanh tướng,nhưng nay tạm nêm canh).
Biết đích là Trạng,viên quan đưa chiếu chỉ của Vua ra,mời Trạng về triều để hỏimột việc quan trọng.Nhưng Hiền lắc đầu nói:
-Trước đây vua bảo ta không biết lễ phép,nhưng chính vua cũng không biết lễ phép nữa là ai.
Nói rồi nhất định không chịu đi.
Về sau Vua phải cho quân gia mang cờ quạt,võng lọng đến đón Hiền vào triều.Trước mặt sứ thần của một cường quốc, ông Trạng nhỏ tuổi ấy cầm cục than viết ra một chữ “điền” giữa sân rồng.Thấy giải đáp đúng,sứ thần lủi thủi rút lui.Vua và đình thần thở dài khoan khoái.Về sau,vua ban thưởng cho Trạng rất hậu và tuy Trạng còn nhỏ tuổi cũng phong chức Thượng thư.[33]

50.GÁI NGOAN DẠY CHỒNG

Ngày xưa có một người nhà giàu,vợ chết sớm,chỉ có độc một người con trai. Đứa con vốn người xấu nết, đần độn,lại là tay chơi bời lêu lỏng,không chịu học hành hay làm ăn gì cả.Thấy con không lo nối nghiệp nhà,người nhà giàu rất buốn phiền,biết rằng của cải của mình sẽ có một ngày đội nón ra đi mà thôi.Bởi vậy, ông mới tính chuyện kiếm cho con một người vợ khôn ngoan đảm đang, để may ra nó sẽ ngăn chặn tay chồng,bảo vệ một phần nào cơ nghiệp.Nghĩ vậy, ông cất công đi khắp nơi tìm kiếm,nhưng đi đã nhiều nơi mà vẫn chưa thấy mộtnào vừa ý.
Một hôm, đến một vùng kia,nhân mỏi chân, ông nghỉ lại một gốc cây bên đường. Ông bỗng thấy ở một cây táo gần đấy có một bọn trẻ đang tranh nhau trẩy ăn.Một chốc sau,một cô gái tuổi chừng đôi tám,cũng đến trẩy táo. Ông mới lân la lại gần hỏi xin ăn.Lúc này,táo chín đã bị bọn người trước trẩy hết,chỉ còn những quả xanh,nhưng cô gái cũng cố chọn lấy những quả ương ương đưa cho khách.
Thấy cô gái tốt bụng, ông ta nghĩ:-“Sởi lởi,trời gởi của cho,quân co trời gò của lại.Chỉ có người nào tốt bụng với mọi người mới xứng đáng được hưởng giàu có sung sướng”.Bởi vậy ông bèn đi tìm đến nhà cô gái,giả làm một người lỡ độ đường xin nghỉ trọ một tối.Và rồi ông được gia đình ân cần tiếp đãi.
Để thử xem côgái có khôn ngoan không, ông lân la làm quen với nàng.Khi biết cô sắp đi chợ, ông đưa ra một quan tiền,nhờ mua hộ mình “một nắm gió,một bó lửa”.Cô gái chẳng nói chẳng rằng,mua về cho ông một cái quạt và một con dao đánh lửa.Thấy thế, ông thầm khen ngợi,nhưng vẫn định thử thêm cho biết.
Qua ngày mai, ông dậy sớm,giở tay nải đưa cho cô gái mấy bát gạo nếp,nhờ nàng thổi giúp cho mình một nồi vừa cơm vừa bánh để ăn và đem đi ăn đường.Cô gái không từ chối,vội lấy gạo ra vo.Trước khi cho vào nồi,nàng bớt lạimột ít giã bột vắt bánh rồi hấp luôn vào cơm.Khi nàng bưng ra, ông già lấy làm vừa ý,cho là con người đó đủ cả đức hạnh,khôn ngoan, đảm đang ít có.Bèn quyết định trở về sắm sửa lễ hỏi cho con trai làm vợ.
Đứa con trai của ông từ ngày có vợ lại càng thêm lêu lỏng;hắn thường bỏ nhà đi đánh đàn đánh đúm với bọn vô lại,làm cho ông hết sức buồn.Và điều làm cho ông lo lắng nhất là hắn thỉnh thoảng lại trộm tiền của ông,khi dăm bảy quan,khimột vài vác,tung vào cuộc đỏ đen.Mặc dù ông đánh đập,mặc dù vợ khuyên lơn,nhưng hắn chứng nào vẫn giữ tật ấy.Dần dần, ông buồn phiền thành bệnh.Một hôm,biết mình sắp chết, ông gọi con dâu đến giường dặn nhỏ:
-Nay cha đã gần đất xa trời.Chồng con là một thằng “phá gia chi tử”,cơ nghiệp này chỉ còn một sớm một chiều mà thôi.Cha rất thương con xấu số.Từ lâu cha làm ăn dành dụm,có để được một hũ vàng chôn ở sau vườn.Vậy cha cho riêng con hũ vàng đó, đừng cho chồng con biết.Sau này,chồng con có thật sự ăn năn hẵng giúp cho nó làm lại cuộc đời.
Đứa con trai ông sau khi người cha qua đời,lại càng chơi bời mặc sức.Vợ hết khuyên lơn đến cầu khẩn,hắn chẳng những không nghe,lại còn phũ phàng với vợ.Mỗi lần thua bạc,hai người lại càng xô xát.Nhiều lần vì vợ cản trở,hắn đánh đập vợ không tiếc tay và làm nhục nàng trước mặt mọi người.Một hôm để khỏi vướng,hắn viết giấy cho vợ đi lấy chồng khác rồi đuổi nàng ra khỏi cửa.
Từ đó, hắn phỉ chí tung hoàng,không một ai dám cản.Quả như lời đoán của bố hắn,mấy chục mẫu ruộng đều lần lượt “nướng” vào sòng bạc.Hết ruộng vườn tới nhà ở, chẳng bao lâu tất cả cái cơ nghiệp mấy đời truyền lại đều sạch sành sanh.Cuối cùng không một đồng dính túi, không một nghề cầm tay,hắn đành bỏ làng mạc quê quán đi lang thang khắp đầu đường xó chợ,ngửa tay ăn xin qua ngày.
Lại nói chuyện người đàn bà sau khi bị chồng đuổi,bèn đổi tên họ,tìm đến đất trần thành mở một ngôi hàng nước.Sau ít lâu,kiếm được một số vốn nhỏ,nàng bắt đầu buôn hàng tấm.Số vốn của nàng ngày một lớn dần lên.Một hôm gặp hai em bé mồ côi đi ăn xin,nàng thương tình đưa về nuôi làm con ,coi như ruột thịt.Cuộc đời dần dần nở hoa trước mắt nàng.Trong một dịp kiếm củi,hai con nàng nhặt được một khúc gỗ mục,về chẻ ra thấy có mấy thoi vàng.Có vốn lớn lại có tài kinh doanh,nên chẳng baolâu nàng trở nên giàu có,nổi tiếng trong trấn.Tiền bạc tuôn về như nước.Tuy sống sung sướng nhưng nàng vẫn ở mộtthân một mình.Thấy nàng giàu có,nhiều kẻ ngấp nghé muốn “gá nghĩa Châu Trần”,nhưng người đàn bà ấy nhất thiết từ chối mọi lời đường mật.Mặc dầu người chồng bạc bẽo và mặc dầu mười lăm năm xa cách,nàng vẫn không quên được tình xưa nghĩa cũ. Đã nhiều lần nàng thuê người lần đi các chợ búa,phố phường dò hỏi, nhưng tin tức của chồng càng hỏi càng bặt tăm.
Năm ấy,sau mấy thàng hạn,lúa khoai chết dần chết mòn trên những cánh đồng nứt nẻ.Giá gạo cứ lên vùn vụt,Ngoài đường, người đi xin ăn kéo từng đoàn.Người đàn bà lúc này đã là bà chủ hiệu.Bà xin phép quan trên cho mình đem tiền gạo ra phát chẩn cho kẻ khó.Làm như thế,nàng còn mong một khi thấy yết thị dán khắp thôn xóm thì chồng mình tất sẽ lần mò về,nếu hắn còn sống. Y như thế thật,ngày bắt đầu phát,nàng đã thấy bóng dáng của chồng ngồi ở xa xa,lấp ló trong đội quân lĩnh chẩn. Đúng là hắn.Từ ngày bắt đầu cầm bị gậy đến nay,hắn vẫn chưa có cách gì để sống khá hơn và đỡ hèn hạ hơn trước.Bây giờ nghe nói có phát chẩn,hắn vội mò đến đây và ngồi về đầu hàng phía tả.Thế nhưng khi phát,những người giúp việc cho bà chủ hiệu lại được lệnh phát từ phía hữu lại,Khi sắp sửa đến lượt hắn thì bọn họ tự nhiên nói lớn:
-Hôm nay đã hết gạo,mời bà con về đợi đến ngày mai!
Hắn buồn bực trở ra.Qua ngày mai,hắn cố tìm đến thật sớm,ngồi vào đầu hàng bên hữu.Nhưng hắn không ngờ những người phát chẩn hôm nay lại bắt đầu từ phía bên kia.Lúc sắp đến hắn thì chúng lại giơ thúng không lên:
-Hôm nay thế là lại hết gạo,bà con hãy đợi đến mai!
Hắn thở than cho số đen đủi,lần trở ra về.Qua hôm sau,lại lần mò đến thật sớm.Lần này hắn len vào ngồi đúng chính giữa đội quân lĩnh chẩn.Trong bụng hắn nghĩ lần này thì không thể mất phần được.Nhưng đến giờ phát,hắn không ngờ người nhà của bà chủ hôm nay lại phát hai đầu phát lại và cuối cùng người không được gì cả,vẫn lại là hắn.Ba lần hỏng cả ba,hắn rất ngao ngán,bèn đánh liều tìm đến dinh cơ bà chủ để xin ăn.Gặp hai đứa con gái muôi của vợ,hắn ngả nón kêu van hết lời. Ở trong nhà, người đàn bà nhìn ra biết là chồng đã do mưu của mình mà đến đây,bèn sai người hầu ra hỏi,xem hắn có biết làm việc gì không để thuê mướn.Nghe hỏi thế, hắn vội trả lời:
-Xin ông bẩm với bà lớn rũ lòng thương cho tôi được hầu hạ bà,rửa bát hay quét nhà,mọi việc tôi đều xin hết sức.Chỉ cho tôi ăn ba miếng là đủ rồi!
Người nhà trở ra cho hắn biết là bà chủ nhận lời.Từ đó,hắn chăm chỉ làm lụng,cố làm vừa lòng chủ.Nhưng chung quy hắn vẫn không biết chủ chính là vợ cũ của mình.Về phần người vợ, cũng không để lộ một tý gì cho hắn biết,chỉ dặn hai con và người nhà đối đãi tử tế mà thôi.
Sau một thời gian,thấy hắn chịu khó làm ăn,người đàn bà mừng lắm.Mộthôm,nàng chogọi hắn lên nhà hỏi xem có biết chữ nghĩa gì không!Hắn đáp:
-Tôi lúc nhỏ được đi học có biết ít nhiều.
-Vậy từ mai trở đi anh không phải hầu hạ nữa,cho anh ở gian nhà khách dạy đám trẻ học phóng,tôi sẽ trả mỗi năm ba mươi quan.
Nghe nói,hắn sung sướng bội phần,cảm thấy lòng nhân đứa của bà chủ đối với mình bằng trời bằng biển,vội nhận lời ngay.Từ đó, hắn đóng vai thầy đồ,cố sức làm cho chủ tin cậy.Nhưng người vợ vẫn thử mãi không thôi.
Một lần,gặp ngày tết,bà chủ sai lấy tiền ra cho kẻ hầu người hạ.Nàng nói:
-Ta cho mỗi người năm quan,hãy mang đi đánh bạc cho vui,nếu hết sẽ cho thêm.
Thầy đồ ta cũng được năm quan tiền.Nhưng trong khi mọi người đem tiền nướng vào xóc đĩa bài mười,thì trái lại,hắn mang nguyên vẹn số tiền đó gửi về cho chủ.Bà chủ hỏi:
-Tại sao anh không thích đánh bạc?
Hắn trả lời:
-Bẩm bà,tôi ngày xưa vì cờ bạc mà đến nông nỗi này.Cho nên bây giờ buộc chỉ cổ tay thề rằng không đụng đến nó nữa.
Thế rồi luôn miệng hắn kể hết cho chủ nghe,từ cuộc đời cũ có ruộng nhiều,có vợ ngoan như thế nào,rồi bán ruộng đuổi vợ ra sao, cho đến lang thang đói rách,và ngày nay đã ăn năn hối lỗi,v.v…Bà chủ hỏi:
-Anh còn thương vợ nữa không?
Hắn rầu rĩ:
-Tôi đã nhiều lần dò tìm mà không thấy?
-Nghe anh nói tôi rất thương tình,Vậy tôi cho anh năm quan để anh đi tìm vợ.Nếu hết tiền mà vẫn chưa thấy,anh cứ về đây tôi sẽ cho thêm mà tìm cho ra.
Hắn mừng rỡ vâng vâng dạ dạ,mang tiền đi tìm.Nhưng sau ba thàng trở về với bộ mặt thiểu não,hắn cho chủ biết không hề thấy tung tích vợ đâu cả,chắc là vợ đã chết rồi.
Từ đấy,vợ thấy chồng chí tình,lại có lòng tu tỉnh, nên rất mừng.Nhưng nàng vẫn chưa ra mặt vội,chỉ an ủi hắn hãy ở lại đây,may chi sẽ có ngày hội ngộ.
Một hôm,nhân ngày giỗ cha chồng,bà chủ nhờ thầy đồ chép bài văn tế.Hắn ta ngạc nhiên và khôn xiết mừng rỡ khi thấy bài vị của tổ tiên nhà chủ chính là bài vị tổ tiên của mình.Lập tức,hai vợ chồng ôm nhau khóc lóc.Rồi sau khi cúng xong,họ mời làng xóm và người nhà ngồi lại kể rõ sự tình.Ai nấy đều cho là mộtcuộc tái ngộ hiếm có.
Về sau,hai vợ chồng dựng vợ gả chồng cho hai con nuôi,giao cửa hiệu lại cho chúng cai quản.Sau đấy,họ dắt nhau trở về quê hương xưa,chuộc lại vườn tược nhà cửa cũ.Và sau khi đã sống yên ổn ở quê nhà, vợ mới sai đào hũ vàng của bố chồng cho mình ngày xưa lên.Nàng nói:
-Có vàng chắc gì đã có hạnh phúc.Cho nên trong những cơn túng thiếu nhất, tôi vẫn không cần đến nó.
Nói đoạn,họ đem số vàng ấy cúng cho đền chùa để bố thí cho người nghèo.
Từ đấy hai vợ chồng sống với nhau đến đầu bạc.[34]
Câu tục ngữ:
Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì: “Dạ,bẩm bà tôi đây!”.
Là do truyện này mà ra.

Post Comment